Những ngành hàng
của Việt Nam chịu tác động của CBAM đó là những ngành tạo ra nhiều khí nhà kính
nhất là xi măng, điện, phân bón, sắt thép, nhôm và hoá chất. Theo cơ sở dữ liệu
của WITS (công cụ thống kê do Ngân hàng thế giới phát triển) năm 2021, Việt Nam
là đối tác thương mại thứ 13 nhập khẩu vào thị trường EU. Tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu đối với hàng hoá thâm dụng carbon của Việt Nam vào thị trường này chiếm
13,8%, tỷ trọng này khá lớn trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra
nước ngoài.
Nếu xét theo cơ
cấu xuất khẩu các sản phẩm CBAM của Việt Nam sang EU (trừ các sản phẩm điện
& Hydrogen) đầu tiên là phân bón từ Việt Nam chỉ chiếm 0,3% thị phần; nhưng
sắt thép chiếm tới 16,6% (đứng đầu các đối tác xuất khẩu vào EU); xi măng 0,9%;
nhôm 6,8%.
Nếu so sánh cường
độ carbon trung bình của các ngành CBAM của Việt Nam với một số nước và khu vực
trên thế giới (kgCO2tđ/USD) thì thấy, nhôm đang ở mức thấp hơn Trung Quốc nhưng
trên mức trung bình thế giới; xi măng do khai thác nên đứng ở mức cao (8,5) trên
mức trung bình của thế giới (5,7); phân bón Việt Nam đang xấp xỉ ngưỡng trung
bình thế giới và sắt thép ở mức cao hơn trung bình.
Không chỉ EU, các
thị trường khác trên thế giới cũng đã "rậm rịch" theo hướng CBAM. Như
Mỹ có Dự luật S.4335 “Đạo luật Cạnh tranh sạch” được chính thức đệ trình vào
ngày 7/6/2022. Dự luật dự kiến áp dụng bắt đầu từ năm 2024 đối với hàng hoá sơ
cấp, và từ năm 2026 đối với cả hàng hoá sơ cấp và thành phẩm. Dự luật có phạm
vi bao phủ ngành đầy đủ hơn cơ chế CBAM của EU, áp dụng với 12 ngành hàng, mở
rộng sang một số ngành khác như công nghiệp thuỷ tinh, công nghiệp giấy,...
Giá carbon đặt ra
là 55 USD (2024) và tăng 5% mỗi năm với điều chỉnh lạm phát. Và áp dụng với tất
cả các nước và vùng lãnh thổ, trừ các nền kinh tế kém phát triển nhất.
Vương Quốc Anh và
Canada chưa đưa ra dự thảo pháp lý chính thức nào, nhưng các cuộc tham vấn đã
được tiến hành giữa các bên liên quan nhằm thảo luận về cơ chế điều chỉnh
carbon biên giới...
Trung Quốc và Hàn
Quốc đã có các cuộc thảo luận tập trung nhiều hơn vào việc giải quyết các tác
động của cơ chế CBAM, hơn là khả năng thiết lập cơ chế điều chỉnh carbon biên
giới..
Để không bị loại
khỏi cuộc chơi bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường
nhập khẩu đặt ra, các doanh nghiệp xuất khẩu cần thay đổi tư duy, quan tâm tới
việc xanh hóa chuỗi cung ứng, trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu
cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường.
Bộ Công Thương đã
và đang nỗ lực định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng giảm thải carbon, nghiên cứu ban hành chính sách, cơ chế hỗ trợ
triển khai các giải pháp áp dụng công nghệ sạch, nâng cao hiệu quả sử dụng năng
lượng, sản xuất sạch hơn, kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh phát triển các nguồn điện
năng lượng tái tạo, giảm mạnh nhiệt điện than.
Nếu doanh nghiệp không
chuẩn bị thì sẽ bị động khi xuất khẩu. Do đó, doanh nghiệp cần phải đa đạng hoá
các đối tác thương mại, thực hiện đánh giá rủi ro và lập kế hoạch các kịch bản
và xây dựng chiến lược giảm lượng carbon, tham gia vào các dự án bù đắp carbon,
bắt buộc đánh giá mức độ thâm dụng carbon, đầu tư vào đổi mới sáng tạo và công
nghệ.
Đặc biệt cần tham
gia vào các sáng kiến hợp tác công nghiệp vì phát thải khí nhà kính có đến hàng
trăm nghìn sản phẩm trong khi Việt Nam có tới gần 200 nguồn phát thải, mỗi
ngành hàng khác nhau nên cần các giải pháp cụ thể cho từng ngành hàng, từng sản
phẩm.
Trước các thách
thức đặt ra với ngành hàng, mỗi doanh nghiệp cũng như toàn ngành này đang không
ngừng hướng tới công nghệ mới, tận dụng nguồn tài nguyên để thực hiện sản xuất
xanh./.