Nhìn lại chặng đường phát triển của Việt Nam trong thời gian vừa qua,
có thể nhận thấy đổi mới và sáng tạo công nghệ đã đóng góp quan trọng,
toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo bứt phá về năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần chuyển
dịch mô hình tăng trưởng và thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Theo
Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm
2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021-2030, chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào
tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai
đoạn 2016-2020, tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu
35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là
5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015); Tỉ trọng giá
trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng
hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đổi mới và sáng tạo
công nghệ sẽ tiếp tục là chìa khóa để Việt Nam duy trì tốc độ tăng
trưởng nhanh, bền vững và đi tắt đón đầu trong giai đoạn phát triển tiếp
theo.
Để hiện thực hóa yêu cầu cao về vai trò của hệ thống khoa học và công
nghệ (KH&CN) trong giai đoạn mới, Văn kiện Đại hội XIII khẳng định,
phải đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ
tư; tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước. Điểm
mới về nhận thức trong Văn kiện Đại hội XIII về vai trò của KH&CN là
không chỉ nhấn mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, mà còn đề cao yêu
cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm của phát triển trong
bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc. Trên cơ sở
đó, một số chính sách lớn được khuyến nghị trong thời gian tới.
Theo báo cáo Đổi mới công nghệ ở Việt Nam - Đánh giá tác động của công
nghệ đến tăng trưởng kinh tế do Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Cục
Ứng dụng và Phát triển công nghệ) và Tổ chức CSIRO’s Data61 của Úc đã
hợp tác tiến hành, bao gồm:
Thứ nhất là, tăng cường đổi mới công nghệ trong các doanh
nghiệp. Nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong việc đổi mới công
nghệ mới và đổi mới trong tổ chức thông qua thay đổi cơ cấu, chiến lược
và văn hóa sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao nhất cho Việt Nam tại thời
điểm này trong sự phát triển của đất nước. Do đó, cần có các chính sách
hỗ trợ đào tạo doanh nghiệp về cách sử dụng công nghệ tốt nhất và những
chính sách này sẽ thay đổi khi năng lực công nghệ trong các doanh nghiệp
được cải thiện và phát triển.
Trong bối cảnh hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam còn yếu
và đang hoàn thiện, cần ưu tiên phát triển năng lực bắt kịp trình độ
công nghệ cao nhất (đường biên công nghệ) thông qua tiếp nhận và phổ
biến công nghệ tiên tiến từ nước ngoài hoặc các công ty đa quốc gia,
thay vì cố gắng thúc ép tạo ra công nghệ mới thông qua hoạt động sáng
chế.
Thứ hai là, nâng cao hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp.
Trọng tâm của hoạt động này là tối ưu hóa việc áp dụng các công nghệ
đang được đổi mới. Trở thành một nhà sản xuất hiệu quả và cạnh tranh
không đòi hỏi phải tạo ra các công nghệ hàng đầu. Tuy nhiên, nó đòi hỏi
phải sử dụng các công nghệ một cách hiệu quả, đây là “khả năng hấp thụ
công nghệ” theo nghĩa rộng hơn. Đó là các hoạt động nhằm tăng cường năng
lực của các doanh nghiệp liên quan đến việc triển khai và sử dụng hiệu
quả công nghệ, đặc biệt là khả năng quản lý và tổ chức của các doanh
nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp, một yếu tố quan trọng
chính là tăng cường năng lực cho các đơn vị hỗ trợ. Đó là các viện về đo
lường, tiêu chuẩn, thử nghiệm và chất lượng, các trường đại học và tổ
chức nghiên cứu và các cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ ba là, thúc đẩy hoạt động R&D và các ngành công
nghiệp mới. Hoạt động R&D giúp tăng khả năng hấp thụ công nghệ và
tạo cơ hội tăng ngày càng nhiều sáng tạo công nghệ khi Việt Nam phát
triển. Trọng tâm hiệu quả nhất của nỗ lực R&D là thúc đẩy chuyển
giao và làm chủ công nghệ trong tất cả các giai đoạn và các ngành. Tại
Việt Nam, hiện nay mức chi cho R&D/GDP còn thấp. Do vậy, cần tăng
mạnh ngay trong thời gian tới, trước hết từ ngân sách nhà nước, đồng
thời có cơ chế khuyến khích cao cho đầu tư vào R&D của doanh nghiệp
nội và FDI, coi R&D là lĩnh vực được ưu đãi cao nhất.
Thứ tư là, phát triển nguồn nhân lực. Sự phát triển các kỹ
năng và năng lực của con người là điều kiện tiên quyết đối với cả đổi
mới và sáng tạo công nghệ. Kỹ năng có thể được phát triển thông qua:
giáo dục chính quy, đào tạo nghề, đào tạo tại chỗ, nhập khẩu hoặc chuyển
dịch lao động có kỹ năng. Tầm quan trọng của các kênh này trong phát
triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế, mức độ phức tạp của
tri thức được sử dụng và khả năng hấp thụ công nghệ của các doanh
nghiệp.
Thứ năm là, tăng cường phát triển các công cụ chính sách và
hiệu lực của cơ chế thực thi. Theo Khảo sát về Đổi mới Sáng tạo của Ngân
hàng Thế Giới, thiếu sự hỗ trợ của chính phủ là một trong ba yếu tố
quan trọng nhất cản trở nỗ lực đổi mới của các doanh nghiệp. Hầu hết các
công cụ chính sách hiện nay tập trung vào việc phát triển cơ sở hạ tầng
KH&CN, các quy định, đào tạo về kỹ năng vận hành và các tiêu chuẩn
công nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần có nhiều hơn nữa các công cụ chính sách
như khuyến khích tài chính về các khoản trợ cấp để phát triển kỹ thuật
tiên tiến, thiết kế sản phẩm, đổi mới sản phẩm/quy trình/tiếp thị và
R&D như ở Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore.
Công nghệ là gốc của đổi mới sáng tạo
Theo Điều 3, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, đổi mới sáng tạo là
việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải
pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa. Đổi mới
sáng tạo thường dựa vào nhiều nền tảng tri thức khác nhau. Các nền tảng
tri thức này, về cơ bản được tạo ra, tích lũy và lan truyền dựa trên các
thành tựu KH&CN. Như vậy, đổi mới sáng tạo có thể mang cả khía cạnh
công nghệ và phi công nghệ nhưng trong đó công nghệ vẫn là cái gốc của
sự đổi mới sáng tạo và tùy theo mức độ tác động mà công nghệ sẽ đóng vai
trò trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình đó.
Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ KH&CN được giao đầu mối
quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện các hoạt động ứng dụng, đổi mới công
nghệ, phát triển công nghệ. Trong hệ thống đổi mới sáng tạo, Cục đề
xuất và triển khai các chính sách, hoạt động hướng tới các doanh nghiệp
chiếm số đông, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là đối tượng
quan trọng nhất của nền kinh tế nói chung và hệ thống đổi mới sáng tạo
nói riêng do chiếm số lượng lớn nhất, sử dụng nhiều lao động nhất, đóng
góp chủ yếu cho GDP. Các hoạt động đổi mới sáng tạo trong khu vực này
cũng diễn ra đa dạng về cả hình thức và quy mô, do đó cần có các chính
sách hỗ trợ phù hợp với năng lực công nghệ và các hình thức đổi mới sáng
tạo khác nhau.
Ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ cho
biết, đối với các doanh nghiệp, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp tập
trung vào các nội dung chủ yếu là đổi mới sản phẩm (bắt đầu từ nghiên
cứu thiết kế sản phẩm mới), đổi mới quy trình (bao gồm quy trình sản
xuất, quy trình quản lý dựa trên công nghệ), đổi mới công nghệ, đổi mới
cách thức (phương thức) tiếp cận và phát triển thị trường. Như vậy, đổi
mới công nghệ có vai trò và tác động quan trọng đối với các nội dung và
hoạt động đổi mới khác. Đối với các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là
khối doanh nghiệp vừa và nhỏ hàng ngày phải đối diện với những khó khăn,
thách thức cho sự tồn tại lại ít có điều kiện tiếp cận đến các cơ chế,
chính sách của nhà nước thì việc giúp họ hiểu được bản chất và cơ hội do
đổi mới sáng tạo đem lại cho sự phát triển doanh nghiệp của họ là rất
quan trọng. Do vậy, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn công nghệ và hỗ
trợ xúc tiến đầu tư đổi mới công nghệ là những hoạt động tối cần thiết,
cần được tiến hành thường xuyên có hệ thống và tính chuyên nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần giải quyết các vấn đề của hệ
thống đổi mới sáng tạo quốc gia, Cục tiếp tục triển khai hiệu quả các
hoạt động được giao, đồng thời đề xuất tập trung triển khai một số hoạt
động như: Tổng hợp thông tin và đề xuất các chính sách, giải pháp trên
cơ sở thực chứng về đo lường, triển khai, đánh giá hiệu quả hoạt động
đổi mới sáng tạo, góp phần giải quyết vấn đề thiên kiến trong phân bố
nguồn lực cho đổi mới sáng tạo; Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển năng lực
bắt kịp trình độ công nghệ (năng lực ứng dụng công nghệ; năng lực chuyển
giao công nghệ; năng lực làm chủ công nghệ; năng lực phát triển công
nghệ) thông qua tiếp nhận, phổ biến, sáng tạo công nghệ, góp phần giải
quyết vấn đề “nghịch lý của đổi mới sáng tạo”; Hỗ trợ doanh nghiệp nâng
cao chất lượng và sự phù hợp của hoạt động R&D và tạo ra tri thức,
nâng cấp phương thức quản lý, đổi mới sản phẩm và quy trình để ứng dụng
công nghệ; Tổ chức thực hiện Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia để
hỗ trợ nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ, hấp thụ công nghệ và đổi
mới công nghệ cho các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(chiếm phần lớn trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo); Tổ chức xây dựng
hệ thống bản đồ công nghệ trong các ngành, lĩnh vực để định hướng công
nghệ và xây dựng lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ cho các ngành,
lĩnh vực và doanh nghiệp; Triển khai Đề án Thúc đẩy chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, Chương trình tìm kiếm, chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung và chuyển giao
công nghệ từ viện nghiên cứu, trường đại học cho doanh nghiệp.
Thời gian tới, Việt Nam cần phải có một bước chuyển đổi về mặt chiến
lược để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng
kết hợp với phát triển công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực mới có
thế mạnh. Cần phải xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải
là nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước; là lực
lượng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình phát triển kinh
tế-xã hội. Và phải làm tốt hơn nữa sự phối hợp giữa Nhà nước và xã hội
trong phát triển KH&CN, kết hợp tốt hơn giữa nội lực và ngoại lực
trong phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
![](https://www.most.gov.vn/Images/editor/images/H%C3%ACnh 1 Sao Mai(1).JPG)
Tháp tinh luyện mỡ cá tra của Công ty Cổ phần Tập đoàn Sao Mai - Công
ty đã tiên phong trong việc nhận chuyển giao, hoàn thiện, đổi mới công
nghệ chế biến phụ phẩm cá tra thành các sản phẩm có giá trị gia tăng,
góp phần nâng giá trị của con cá tra lên 28%, xử lý 1/3 lượng mỡ cá của
Vùng đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ)
![](https://www.most.gov.vn/Images/editor/images/H%C3%ACnh 2 Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng H%E1%BA%A3i(1).jpg)
Công ty Cổ phần ô tô Trường Hải đã ứng dụng công nghệ tự động hóa vào
sản xuất, điều hành, nhờ đó giúp nhà máy sản xuất nhíp ôtô của công ty
nâng tỷ lệ tự động hóa sản xuất lên tới 70÷80%, sản phẩm xuất xưởng tăng
thêm 15%/năm, chi phí sản xuất giảm 2,0%/sản phẩm. (Ảnh: Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ)
![](https://www.most.gov.vn/Images/editor/images/H%C3%ACnh 3 %C4%90%E1%BA%AFc L%E1%BB%99c(1).jpg)
Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc đã tiếp nhận chuyển giao công nghệ và
xây dựng mô hình nuôi tôm hùm trong bể trên bờ quy mô công nghiệp đầu
tiên trong cả nước qua đó đã giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường,
giảm thiểu tác động của thiên nhiên, mang lại giá trị kinh tế cao, phát
triển bền vững nghề nuôi tôm hùm tại Việt Nam. (Ảnh: Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ)