Trong thời gian qua, mặc
dù mới được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện hoạt động phát triển tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề CN-TTCN, nhưng Cục Công Thương địa phương (Cục CTĐP) đã tích
cực phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai các hoạt động và đạt được một
số kết quả như sau:
- Về công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hỗ trợ phát triển tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề CN-TTCN: Cục CTĐP đã trình Bộ Công Thương trình Chính phủ ban
hành một số văn bản để hỗ trợ, phát triển công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công
nghiệp và làng nghề bao gồm:
+ Nghị định số 45/2012/NĐ-CP ngày 21 tháng 5 năm 2012 về
khuyến công.
+ Nghị định số
68/2017/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2017 về quản lý, phát triển cụm công nghiệp;
Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP: Tại 2 Nghị định này đã quy định một số
chính sách hỗ trợ đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm hoặc có
nguy cơ gây ô nhiễm trong làng nghề di dời vào cụm công nghiệp. Đặc biệt, Nghị
định số 68/2017/NĐ-CP quy định nội dung ưu đãi, hỗ trợ riêng đối với các cụm
công nghiệp làng nghề để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề ở
địa phương.
- Về Chương trình khuyến
công quốc gia:
Cục CTĐP đã hỗ trợ các
cơ sở sản xuất (cơ sở công nghiệp nông thôn) tại các địa phương trên cả nước,
trong đó có các cơ sở sản xuất tại các làng nghề các đề án khuyến công, góp
phần tích cực trong triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng và chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, giúp các cơ sở tháo gỡ khó khăn, ổn định và
phát triển sản xuất kinh doanh.
Bằng nguồn kinh phí khuyến công, Cục CTĐP đã phối hợp với các
đơn vị có liên quan hỗ trợ các cơ sở sản
xuất trong và ngoài các làng nghề một số nội dung như: đào
tạo nghề, tạo việc làm mới cho các lao động nông thôn;
đào tạo nâng cao năng lực quản lý cán bộ, quản lý điều hành sản xuất cho các cơ
sở công nghiệp nông thôn;
xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm mới, công nghệ mới; hỗ
trợ chuyển giao công nghệ và ứng dụng máy móc tiên tiến cho các cơ sở; tổ
chức một số hội chợ triển lãm chuyên ngành về thủ công mỹ nghệ cấp khu vực và
cấp quốc gia...
Tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu
cấp khu vực và cấp quốc gia, trong đó có các sản phẩm của các cơ sở công nghiệp
nông thôn trong các làng nghề tham gia. Kết quả, trong 1.632 sản phẩm được bình
chọn có nhiều sản phẩm thuộc các cơ sở sản xuất trong các làng nghề. Các sản
phẩm của các cơ sở công nghiệp nông thôn sau khi được bình chọn sẽ được ưu tiên
tiếp tục hỗ trợ phát triển sản xuất và xúc tiến thương mại thông qua các chương
trình xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ thị trường trong nước, chuyển giao
công nghệ và sàn thương mại điện tử, xây dựng thương hiệu, phát triển chất
lượng, mẫu mã sản phẩm tiếp cận thị trường, góp phần thúc đẩy phát triển công
nghiệp nông thôn.
Một số khó khăn, tồn tại
- Công tác quy hoạch
làng nghề của một số địa phương ban hành đã lâu, có một số nội dung không còn
phù hợp, nhưng chưa được điều chỉnh thay đổi phù hợp tình hình mới đã gây khó
khăn cho phát triển làng nghề.
- Hiện nay, hệ thống các
văn bản quản lý đối với lĩnh vực làng nghề đã được Đảng, Chính phủ, các cơ quan
ban ngành từ Trung ương đến địa phương ban hành (quy hoạch - Luật Quy hoạch;
đầu tư, xây dựng - Luật Đầu tư, Luật Xây dựng; chính sách hỗ trợ - Luật Hỗ trợ
DNNVV, Luật Hợp tác xã, nghị định về Khuyến công, nghị định về Tổ hợp tác;...)
tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề giai đoạn vừa qua chưa
tương xứng với tiềm năng sẵn có. Nguyên nhân của việc này có thể là do khâu tổ
chức triển khai còn có nơi chưa được tốt. Đặc biệt, công tác tuyên truyền để
cho các cơ quan, đơn vị và người dân tại các làng nghề hiểu và thực hiện đúng
theo định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn thực hiện chưa được tốt.
Đây là điều cần sớm khắc phục trong thời gian tới để các làng nghề phát triển
ổn định, bền vững.
- Chất lượng sản phẩm, hàng hóa của làng nghề còn thấp: Công nghệ thiết bị phục vụ sản xuất của các làng
nghề phần lớn lạc hậu, thủ công và bán cơ khí; mẫu mã đơn điệu, chậm thay đổi, kém sức cạnh tranh; nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất chưa chủ động
được, chưa có quy mô tập trung, chưa tạo được các vùng nguyên liệu để sản xuất
hàng hóa lớn; các cơ sở sản xuất của các làng nghề gặp nhiều khó khăn nhất là tiếp
cận vay vốn, ứng
dụng khoa học, công nghệ, nâng cao tay nghề; nội
tại yếu, năng lực cạnh tranh rất thấp...
- Trong cơ chế thị
trường, do thu nhập nghề thấp, bấp bênh nên lao động trong các làng nghề chuyển
dịch mạnh từ nông thôn ra các đô thị lớn tìm việc làm, hoặc chuyển đổi sang
ngành nghề khác có thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Do đó, công tác nhân cấy,
truyền nghề không được phát triển tốt, dẫn tới số lượng nghệ nhân, thợ nghề
giỏi ở các làng nghề dần bị mai một.
- Cơ sở hạ tầng bảo vệ
môi trường làng nghề đang bị xuống cấp, sự phát triển “nóng” của các làng nghề
thời gian qua dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường tăng cao, khó kiểm soát,
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của làng nghề.
- Nhiều làng nghề còn
chưa có chiến lược phát triển sản phẩm, chưa đủ sức xây dựng thương hiệu làng
nghề để khai thác tốt hơn thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong các làng
nghề có tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, không đăng ký quyền sở hữu trí
tuệ nên không được bảo vệ dẫn đến không có động lực sáng tạo mẫu mã, nguyên
liệu mới, từ đó làm giảm tính hấp dẫn, cạnh tranh của sản phẩm. Nguyên nhân
chính của tình trạng này là do các làng nghề nằm trong các khu vực dân cư,
trong thôn xóm ở các xã, sản xuất nhỏ lẻ thời vụ nên công tác tuyên truyền,
hướng dẫn, quản lý, kiểm tra còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, một số địa
phương chưa quan tâm đúng mức, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động
người dân, doanh nghiệp trong công tác đấu tranh phòng, chống hàng giả, xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra, đối với hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, lực lượng quản lý thị trường không trực tiếp
kiểm tra nơi sản xuất mà phải thông qua hành vi vi phạm trên khâu lưu thông dẫn
đến rất bị động trong công tác điều tra, phát hiện cũng như phối hợp kiểm tra,
xử lý vi phạm. Trong quá trình kiểm tra, nghi ngờ hàng giả, quản lý thị trường
gặp khó khăn trong việc tìm kiếm chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc đại diện được ủy
quyền hợp pháp để xác định là hàng giả.