Có chất lượng tốt, có câu chuyện văn hoá phía sau, song việc tiêu thụ
sản phẩm OCOP trong thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
“Tổng số sản phẩm tuy nhiều, song số sản phẩm 5 sao thì nhiều năm nay vẫn dừng ở con số 42 sản phẩm” - ông Đặng Quý Nhân - Văn phòng điều phối nông thôn mới Trung ương (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chỉ rõ.
So sánh với một nước đi đầu trong phát triển sản phẩm OCOP là Nhật Bản, ông Đặng Quý Nhân đặt vấn đề: “Tại
sao bánh Mochi của Nhật Bản lại trở thành đặc sản và ngon, ngọt, mềm,
thơm đến thế. Bánh vẫn được làm từ bột gạo nếp, tương tự như chiếc bánh
dày của Việt Nam nhưng cách làm khác nhau tạo nên chất lượng, giá trị
sản phẩm khác nhau”.
Câu trả
lời là sản phẩm của Nhật Bản được quan tâm sản xuất từ những chi tiết
nhỏ, không được phép có 1 sợi tóc hay một chút chất bẩn nào rơi vào để
ảnh hưởng đến sản phẩm. Người đến thăm quan xưởng sản xuất bánh Mochi có
khi chỉ mất vài chục phút để thăm quan hết xưởng nhưng mất đến hàng
tiếng đồng hồ để chuẩn bị đầu tóc, giày dép chỉn chu trước khi vào thăm,
Một ví dụ khác là sản phẩm chè, cùng một loại chè nhưng chè Việt Nam uống có vị đắng rõ rệt hơn chè của Nhật Bản. “Cùng
là thu hoạch từ tháng 7 hàng năm nhưng chè của Việt Nam hái 10 ngày 1
lứa nên rất đắng. Chè của Nhật đến khi được thu hoạch thì được che tối, 2
tháng mới hái một lần nên chè rất ngon. Điều đó cho thấy sản phẩm OCOP
của Việt Nam phải cải tiến rất nhiều để cho chất lượng tốt hơn. Và người
làm ra sản phẩm OCOP phải thực sự hiểu sản phẩm của mình để nâng cao
chất lượng từng ngày. Không được phép dừng lại dù sản phẩm của mình đã
đạt 5 sao” - ông Đặng Quý Nhân nói.
Hoặc
cũng với sản phẩm chè, 20 năm trước, doanh nghiêp chè có thói quen đựng
chè trong túi nilong trắng theo cân nhưng giờ họ đã thay bằng bao bì
khác. Chè trong túi nilong trắng sẽ bị oxy hóa khi gặp ánh sáng nên phải
bao bì tối, và không phải đóng theo 1 cân mà theo từng ấm. Đây là một
tiến bộ của ngành chè mà các ngành khác cũng phải học.
Hoặc
sản phẩm mì gạo, đại diện Văn phòng điều phối nông thôn mới Trung ương
cho rằng, không thể chấp nhận bó mì OCOP buộc bằng dây lạt. “Người
bán nói rằng do giá rẻ lắm nên không thể làm bao bì, đóng gói khác nhưng
tôi không cho là vậy. OCOP là đặc sản địa phương, có thể là độc nhất vô
nhị nhưng sản phẩm làm ra phải tinh túy” – ông Đặng Quý Nhân nói.
Việc
thiếu đầu tư "trau chuốt" cho bao bì và nâng cao chất lượng sản phẩm,
sản xuất manh mún, thiếu các tiêu chí an toàn... là lý do khiến sản phẩm
OCOP còn chiếm vị trí khiêm tốn trong các siêu thị, hệ thống phân phối.
Đối
với công tác tiêu thụ sản phẩm, các diễn giả cho rằng, công tác xúc
tiến thương mại còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa tạo được điểm nhấn nổi
trội và đặc sắc. Công tác quản lý, giám sát sản phẩm sau khi được công
nhận OCOP cần được quan tâm nhiều hơn.