Theo Cục Trồng trọt, vụ Hè Thu, vụ Mùa 2020 thời tiết diễn biến thất thường, nắng nóng, khô hạn xảy ra gay gắt ngay đầu vụ trên diện rộng tại hầu hết các tỉnh Duyên hải Nam Trung và Tây Nguyên. Từ đó, đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển chậm và năng suất một số cây trồng. Tuy nhiên nhờ sự chủ động triển khai sản xuất được tiến hành sớm hơn đến từng vùng sản xuất, từng loại cây trồng nên đã đạt sản lượng cao về năng suất.
Cụ thể, vụ Hè Thu tổng diện tích gieo trồng 162 ngàn ha, giảm 17 ngàn ha, năng suất ước đạt 60,97 tạ/ha, tăng 1,04 tạ/ha, sản lượng ước đạt 987 ngàn tấn.
Vụ Mùa tổng diện tích gieo trồng hơn 266 ngàn ha, giảm 5,3 ngàn ha, năng suất đạt 52,47 tạ/ha, tăng 1,09 tạ/ha, sản lượng ước đạt 1,4 triệu tấn, tăng 2.000 tấn so với vụ Mùa 2019.
Theo kế hoạch, vụ Đông Xuân 2020-2021, vùng ĐBSCL xuống giống 1.550.000ha (tăng 3.500ha so với vụ Đông Xuân 2019-2020), năng suất 70,34 tạ/ha (tăng 1,17 tạ/ha), sản lượng hơn 10,9 triệu tấn(tăng 205.600 tấn).
- Diễn biến giá
Giá lúa gạo tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long ổn định vào đầu tháng những đến cuối tháng giá tăng trở lại do giá gạo xuất khẩu đã tăng ở mức gần sát 500 USD/tấn cho gạo 5% tấm.
Cụ thể, tại An Giang, lúa Jasmine dao động ở mức 6.100 – 6.200 đ/kg, tăng 200 đ/kg; lúa OM 9577, OM 9582 tăng 100 đ/kg lên mức 6.250 đ/kg; Đài thơm 8 tăng 150 đ/kg, lên 6.500 đ/kg; lúa IR 504 6.100 đ/kg; OM 5451 6.100 đ/kg.
Giá gạo NL IR504 ở mức 9.400 đ/kg, tăng 300 đ/kg; gạo NL OM 5451 ở mức 9.100 đ/kg, tăng 100 đ/kg; gạo OM 18 ở mức 9.100 đ/kg, tăng 100 đ/kg; gạo TP IR 504 10.600 đ/kg, tăng 100 đ/kg. Không chỉ gạo mà mặt hàng cám vàng cũng tăng 100 đ/kg lên mức 6.250 đ/kg.
Giá gạo thơm Jasmine ở mức 15.000-15.500 đ/kg; gạo thơm Đài Loan 21.200 đ/kg; gạo Nàng Hoa 15.500 đ/kg; gạo Nhật 22.500 đ/kg.
- Tình hình xuất khẩu
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, trong hai tuần đầu tháng 10/2020, lượng gạo xuất khẩu đạt hơn 181,8 nghìn tấn, trị giá hơn 97,7 triệu USD, giảm 10,3% về lượng và giảm 3,5% về trị giá so với tháng 9/2020. Giá xuất khẩu gạo bình quân trong nửa đầu tháng 10/2020 đạt 537,3 USD/tấn, tăng 7,6% so với cùng kỳ tháng trước.
Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2020, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,98 triệu tấn, đạt kim ngạch 2,44 tỷ USD, giảm 1,35% về lượng nhưng tăng 11,13% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2019. Giá xuất khẩu trung bình đạt 490,6 USD/tấn.
Trong 9 tháng đầu năm 2020, Philippines vẫn đứng đầu về thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 36,3% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước và chiếm 34,5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,81 triệu tấn, tương đương 843,48 triệu USD, giá trung bình 466 USD/tấn, giảm 3,9% về lượng, nhưng tăng 9,2% về kim ngạch và tăng 13,6% về giá so với cùng kỳ năm 2019.
Tiếp theo là thị trường Trung Quốc chiếm gần 11,6% trong tổng lượng và chiếm 13,8% trong tổng kim ngạch, với 576.597 tấn, tương đương 338,28 triệu USD, giá trung bình 568,7 USD/tấn, tăng 48,7% về lượng, tăng 75,4% về kim ngạch và tăng 18% về giá so với cùng kỳ năm 2019.
Xuất khẩu sang thị trường Ghana đạt 412.112 tấn, tương đương 217,41 triệu USD, giá 527,6 USD/tấn, tăng cả về lượng, giá và kim ngạch với mức tăng lần lượt 41,7%, 8% và 53% so với cùng kỳ, chiếm gần 9% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Trong tháng 9/2020, xuất khẩu gạo sang thị trường EU đạt hơn 3,2 nghìn tấn, đạt trị giá hơn 1,7 triệu USD, tăng 189% về lượng, tăng 167% về trị giá so với tháng 8/2020 và tăng 14,2% về lượng và tăng 8,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá trung bình đạt 527,1 USD/tấn.
Ngoài ra, điểm nổi bật trong hoạt động xuất khẩu gạo là cơ cấu chủng loại đã và đang dần dần chuyển dịch sang các loại gạo có giá trị gia tăng cao như: gạo thơm (chiếm gần 30% trong tỷ trọng tổng lượng gạo xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2020), gạo japonica (chiếm 4%), gạo nếp (chiếm hơn 10,13%).
Thị trường xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2020
|
Thị trường |
9 tháng đầu năm 2020 |
So với cùng kỳ 2019 |
||
|
Lượng (tấn) |
Trị giá (USD) |
Lượng (%) |
Trị giá (%) |
|
|
Philippines |
1.809.530 |
843.475.660 |
-3,87 |
9,2 |
|
Trung Quốc |
576.597 |
338.278.916 |
48,71 |
75,42 |
|
Ghana |
412.112 |
217.411.876 |
41,69 |
53,03 |
|
Malaysia |
492.232 |
210.019.039 |
11 |
20,04 |
|
Bờ Biển Ngà |
361.519 |
165.318.842 |
-15,49 |
-9,45 |
|
Iraq |
90.000 |
47.610.003 |
-66,68 |
-65,64 |
|
Singapore |
83.097 |
45.561.822 |
20,62 |
24,41 |
|
Indonesia |
75.937 |
41.761.577 |
157,07 |
220,24 |
|
Hồng Kông (TQ) |
61.173 |
34.424.165 |
-35,52 |
-29,22 |
|
Mozambique |
50.159 |
25.056.009 |
39,82 |
48,3 |
|
U.A.E |
37.260 |
20.866.396 |
4,03 |
11,28 |
|
Ả Rập Xê Út |
27.464 |
16.059.636 |
14,71 |
23,27 |
|
Senegal |
42.061 |
14.980.503 |
-21,68 |
-11,39 |
|
Australia |
21.812 |
13.659.161 |
58,67 |
58,39 |
|
Hoa Kỳ |
14.852 |
10.179.745 |
18,02 |
22,5 |
|
EU |
19.013 |
10.057.179 |
24,95 |
23,49 |
|
CH Tanzania |
15.173 |
8.719.869 |
-6,1 |
-2,3 |
|
Đài Loan (TQ) |
15.484 |
8.641.871 |
-15,48 |
1,2 |
|
Ba Lan |
7.733 |
3.977.237 |
9,86 |
8,84 |
|
Hà Lan |
6.721 |
3.438.116 |
36,58 |
35,41 |
|
Nga |
7.613 |
3.284.908 |
-62,25 |
-60,21 |
|
Nam Phi |
5.046 |
2.765.156 |
-31,51 |
-23,01 |
|
Pháp |
2.803 |
1.654.197 |
112,99 |
117,67 |
|
Angola |
3.112 |
1.481.130 |
-76,88 |
-70,67 |
|
Ukraine |
2.020 |
1.219.504 |
20,38 |
39,46 |
|
Tây Ban Nha |
1.371 |
747.327 |
107,1 |
142,76 |
|
Chile |
1.568 |
722.788 |
36,11 |
27,25 |
|
Thổ Nhĩ Kỳ |
833 |
521.581 |
-33,94 |
-11,85 |
Nguồn: TCHQ
So với các ngành hàng như hóa chất, điều, cà phê, thủy sản, dệt may, gỗ, sữa, thì ngành gạo là ngành hàng được kì vọng sẽ hưởng lợi từ EVFTA trong dài hạn với mức độ rất tích cực.
Năm 2019, Việt Nam xuất khẩu 21.300 tấn gạo sang thị trường châu Âu, tương đương giá trị 11,4 triệu USD, chỉ chiếm 0,3% tổng sản lượng xuất khẩu gạo Việt Nam. Trước EVFTA, thuế nhập khẩu đối với gạo Việt Nam là 65-211 EUR/tấn, khoảng 5-45%.
Mức thuế này được giảm về 0% từ thời điểm EVFTA có hiệu lực đối với gạo theo hạn ngạch - 80 nghìn tấn/năm (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm). Ngoài ra, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ đối với gạo tấm sau 5 năm và các sản phẩm từ gạo sau 3-5 năm.
Trước đây, sản lượng gạo xuất khẩu sang châu Âu rất ít do chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe về chất lượng và châu Âu chủ yếu tiêu thụ gạo basmati của Ấn Độ thay vì gạo thơm từ các nước như Thái Lan, Việt Nam.
Việc EVFTA giảm thuế nhập khẩu sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp gạo tại Việt Nam xây dựng mô hình sản xuất gạo khép kín, do đó cải thiện chất lượng và củng cố thương hiệu gạo Việt Nam trên toàn cầu.
Tuy sản lượng xuất khẩu sang châu Âu không nhiều so với sản lượng xuất khấu sang các thị trường khác, nhưng giá xuất khẩu gạo thương hiệu sẽ cao hơn nhiều so với giá gạo hàng hóa, do đó giảm rủi ro thua lỗ cho các doanh nghiệp gạo.
Giang Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập