Theo cam kết trong EVFTA, Hiệp định sẽ loại bỏ hầu hết các
rào cản thuế quan, ngoại trừ một số mặt hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan miễn
thuế.
Về phía Liên minh châu Âu (EU), cam kết xóa bỏ thuế quan
ngay khi EVFTA có hiệu lực đối với hàng hóa của Việt Nam thuộc 85,6% số dòng
thuế trong biểu thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
EU.
Trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU cam kết xóa
bỏ 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam vào EU. Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm: một số sản
phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao...
Cùng đó, EU cam kết mở cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan (TRQs) với thuế
nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
Về thuế xuất khẩu của Việt Nam, Việt Nam cam kết xoá bỏ hầu
hết các loại thuế xuất khẩu đối với hàng hoá xuất sang EU. Các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở EU sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam với gầm 100 triệu người
tiêu dùng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu đang tăng trưởng nhanh.
Báo cáo Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) quý II/2025 do Hiệp
hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) công bố mới đây cho thấy,
tỷ lệ doanh nghiệp xác định ưu đãi thuế quan là lợi ích nổi bật của EVFTA đã
tăng vọt từ 29% trong quý II/2024 lên đến 61% trong quý II/2025. Trong đó, một
số doanh nghiệp đã có thể định lượng lợi nhuận trực tiếp từ EVFTA, mức tăng
trung bình được ghi nhận vào lợi nhuận ròng là 8,7% – với một số doanh nghiệp
báo cáo con số ấn tượng lên tới 25%. Sự gia tăng này phản ánh hiệu quả của lộ
trình cắt giảm thuế theo từng giai đoạn, cũng như mức độ tận dụng ngày càng cao
các điều khoản ưu đãi của hiệp định.
Cũng theo báo cáo này, với những cam kết thuế quan hấp dẫn,
sau 5 năm thực thi và tận dụng EVFTA, có đến 98,2% doanh nghiệp châu Âu tham
gia khảo sát cho biết, họ đã biết đến EVFTA và gần một nửa trong số đó báo cáo
rằng hiệp định mang lại lợi ích từ mức trung bình đến đáng kể. Đáng chú ý,
không chỉ các tập đoàn lớn được hưởng lợi mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
cũng đang khai thác tốt các ưu đãi từ hiệp định.
Không chỉ dừng lại ở các ưu đãi thuế quan, EVFTA còn là chìa
khóa giúp doanh nghiệp châu Âu tiếp cận tốt hơn thị trường nội địa đang phát
triển nhanh chóng của Việt Nam – từ cơ hội đầu tư FDI được hưởng nhiều chính
sách ưu đãi đến hợp tác trong các dự án hợp tác công tư (PPP). Với quy mô dân số
100 triệu người và lực lượng lao động hơn 55 triệu người, Việt Nam đang dần trở
thành một hệ sinh thái chiến lược cho các doanh nghiệp châu Âu hội nhập sâu hơn
vào các chuỗi cung ứng mới và mở rộng thị trường dài hạn.
Cũng theo EuroCham, trong các lĩnh vực như nông nghiệp bền vững,
chuyển đổi số và năng lượng xanh, chuyên môn của châu Âu là sự bổ trợ lý tưởng
cho nền tảng tài nguyên và các ưu tiên phát triển của Việt Nam. Ví dụ, những đổi
mới từ châu Âu trong nông nghiệp số và công nghệ xanh đang góp phần nâng cao
năng suất, chất lượng và khả năng truy xuất nguồn gốc trong các ngành nông nghiệp,
thực phẩm và nuôi trồng thủy sản - những lĩnh vực mà Việt Nam đang là nhà cung
cấp chủ lực cho thị trường châu Âu. EVFTA đang giúp Việt Nam định vị mình như một
trung tâm sản xuất - xuất khẩu đáng tin cậy trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn
cầu ngày càng phân mảnh.
Ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch EuroCham khẳng định, Hiệp định
EVFTA nổi bật như một biểu tượng của niềm tin và tinh thần hợp tác trong bối
cảnh địa chính trị toàn cầu đầy biến động. Đồng quan điểm, Đại sứ EU Julien
Guerrier nhấn mạnh: “Hiệp định đã củng cố lòng tin, thúc đẩy thương mại và mang
lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía”. Rõ ràng, Hiệp định EVFTA không chỉ là
một thỏa thuận về thuế quan mà còn là nền tảng cho sự hài hòa về tiêu chuẩn và
thịnh vượng bền vững.
Ông Jean-Jacques Bouflet - Phó Chủ tịch EuroCham, người từng
là nhà đàm phán EVFTA cho rằng, các điều khoản của hiệp định được thiết kế để tối
ưu hiệu quả và tính bao trùm. Tuy nhiên, thực thi là một quá trình dài, cần sự
điều chỉnh liên tục và tư duy lấy doanh nghiệp làm trung tâm.
Chứng nhận xuất xứ (C/O) hiện được xem là công cụ quan trọng
để doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế. Năm 2024, Việt Nam đã cấp trên 1,8 triệu
C/O ưu đãi với tổng giá trị xuất khẩu vượt 100 tỷ USD. Riêng xuất khẩu sang EU
đạt mức cao nhất từ trước tới nay với 51,7 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ. Từ
tháng 5/2025, Việt Nam đã bắt đầu tập trung hóa quy trình cấp C/O và hướng tới
xây dựng nền tảng số quốc gia. Tuy vậy, hiện vẫn tồn tại sự chênh lệch lớn về
thời gian xử lý, từ dưới 24 giờ đến trên một tuần. Do đó, EuroCham bày tỏ mong
muốn đẩy mạnh đăng ký điện tử và cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ nhằm
tiết kiệm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả thương mại.
Với nhu cầu ngày càng tăng từ thị trường EU đối với sản phẩm
bền vững, Việt Nam có nhiều lợi thế khai thác từ nguồn nguyên liệu phong phú đến
cam kết mạnh mẽ với phát triển xanh, cũng như đảm bảo tiêu chuẩn cao về môi trường
và xã hội. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận sâu hơn
vào chuỗi cung ứng của EU mà còn gia tăng giá trị thương hiệu và năng lực cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Ông Ngô Chung Khanh – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại
đa biên, Bộ Công Thương nhấn mạnh, EU là thị trường tốt, thị trường tiềm năng,
với tiêu chuẩn thị trường cao nhưng vấn đề quan trọng là xuất khẩu sang EU đem
lại giá trị cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đang xuất khẩu tốt sang thị
trường này.
Kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Bộ Công Thương đã trình Chính
phủ ban hành kế hoạch thực thi, sau đó Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ,
ngành, địa phương xây dựng kế hoạch thực thi và kể từ thời gian đó, các bộ,
ngành, địa phương phối hợp rất chặt chẽ với các Hiệp hội ngành hàng để làm sao
triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm nhiều nội dung trong cả một
tổng thể, các cấu phần như: tuyên truyền, phổ biến, xây dựng pháp luật, hỗ trợ
doanh nghiệp phát triển bền vững và các vấn đề xã hội…
Liên quan đến chuỗi giá trị, hiện nay Chính phủ đang giao Bộ
Công Thương triển khai xây dựng Đề án hệ sinh thái kết nối các chủ thể doanh
nghiệp lại với nhau và không chỉ có sự hỗ trợ từ cơ quan địa phương, cơ quan
Trung ương, mà cả sự hỗ trợ của hiệp hội logistics, ngân hàng, đơn vị tư vấn…
Khi có hệ sinh thái, các sản phẩm rất dễ truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, Bộ Công
Thương tiếp tục triển khai xây dựng chỉ số FTA Index mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa
trong các năm tới để làm sao tất cả các ngành hàng, các cơ quan, chính quyền địa
phương và trung ương phối hợp chặt chẽ nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả
hiệp định EVFTA.
Đại diện EuroCham cũng ghi nhận, từ cuối năm 2024, Việt Nam
đã triển khai nhiều cải cách cơ cấu mạnh mẽ: sáp nhập bộ, ngành và địa phương;
tinh gọn 30% bộ máy hành chính; ứng dụng VNeID cho định danh doanh nghiệp và
công bố Chỉ số FTA Index đầu tiên trong cả nước vào năm 2025. Theo đó, Chỉ số
FTA Index do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng giúp chính quyền các cấp định hướng
hiệu quả hội nhập kinh tế, nâng cao tính minh bạch và năng lực thực thi. Đây là
nền tảng để hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu bền vững và thu hút đầu
tư dài hạn. Trước bối cảnh quốc tế nhiều biến động, Việt Nam luôn chủ động nhận
diện cả cơ hội lẫn thách thức của tiến trình hội nhập, đồng thời nhấn mạnh vai
trò của những chính sách phản ứng nhanh, linh hoạt và thực chất. Trong chiến lược
phát triển dài hạn, việc tận dụng tối đa các FTA được xác định là chìa khóa
then chốt giúp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng, thu hút đầu tư và củng cố vị thế
trên trường quốc tế.
NTXT