Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 7 tháng đầu
năm 2025, xuất khẩu chè đạt 69,9 nghìn tấn và 117 triệu USD, giảm
10,9% về khối lượng và giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá chè
xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1.674 USD/tấn, giảm 1,4% so với
cùng kỳ năm 2024.
Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc là 3 thị trường
tiêu thụ chè lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 35,7%, 11,4% và
9,7%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu chè tăng mạnh
nhất ở thị trường Iraq với mức tăng 92,9% và giảm mạnh nhất ở thị trường Tiểu
vương quốc Ả rập Thống Nhất với mức giảm 56,3%.
EU là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất trên toàn cầu. Theo
số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu, các nhà cung cấp chè chính cho EU từ thị
trường ngoại khối bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Sri Lanka. Nhập khẩu chè của EU
từ Việt Nam chỉ chiếm 0,6% tổng trị giá nhập khẩu của EU từ thị trường ngoại khối.
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu chè lớn thứ hai thế giới. Thị
trường chè Hoa Kỳ rất đa dạng với xu hướng ưa chuộng chè đặc sản và chè hữu cơ
ngày càng tăng. Các nước xuất khẩu chè chính sang Hoa Kỳ bao gồm Trung Quốc, Ấn
Độ và Sri Lanka. Từ đầu năm đến nay, Hoa Kỳ cũng tăng nhập khẩu chè từ Việt
Nam, nhưng thị phần chè của Việt Nam chỉ chiếm 2% tổng trị giá nhập khẩu của thị
trường này.
Thị trường Anh nhập khẩu chè chủ yếu từ Ấn Độ, Kenya và Sri
Lanka. Thị trường chè Anh đặc trưng bởi sự ưa chuộng mạnh mẽ đối với chè đen,
thường được dùng kèm với sữa và đường. Chè của Việt Nam chỉ chiếm 0,2% tổng trị
giá nhập khẩu chè của Anh.
Mặc dù Nhật Bản nổi tiếng với sản lượng chè xanh, nước này
cũng nhập khẩu một lượng lớn chè, đặc biệt là chè đen và chè ô long. Nguồn cung
cấp chè nhập khẩu chính là từ Trung Quốc, Ấn Độ và Sri Lanka. Tỷ trọng nhập khẩu
chè của thị trường Nhật Bản từ Việt Nam cũng chỉ chiếm 1,6% tổng trị giá nhập
khẩu của thị trường này.
Ngoài ra, nhu cầu chè của thị trường Australia cũng rất đa dạng,
với sự quan tâm ngày càng tăng đối với các loại chè đặc sản và chè hữu cơ. Thị
trường này nhập khẩu chè từ Ấn Độ, Trung Quốc và Sri Lanka. Hiện, tỷ trọng nhập
khẩu chè của thị trường Australia từ Việt Nam đạt thấp, chiếm 0,3% tổng trị giá
nhập khẩu. Một con số khá khiêm tốn.
Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè, với sản
phẩm được xuất khẩu đến hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, giá
chè xuất khẩu bình quân của nước ta hiện chỉ đạt khoảng 65% so với mức
bình quân của thế giới và chỉ bằng 55% giá bình quân của chè xuất khẩu từ Ấn Độ
và Sri Lanka. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng giá chè xuất khẩu bình quân
của nước ta còn thấp do phần lớn chè xuất khẩu của Việt Nam là chè thô, chưa
qua chế biến sâu, đóng gói đơn giản, thiếu nhãn mác, thương hiệu rõ ràng.
Đáng chú ý, theo TS. Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện
Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, giá chè xuất khẩu bình
quân của Việt Nam chỉ đạt 1,75 USD/kg, trong khi đó, giá bán bình quân tại thị
trường nội địa lên tới 7,5 USD/kg, cao gấp hơn 4,3 lần.
Tuy nhiên, cơ cấu xuất khẩu có sự thay đổi rõ rệt. Cụ thể,
chè xanh (bao gồm chè ướp hương, chè nhài, chè Ô long) chiếm gần 60% sản lượng
và 70% giá trị xuất khẩu, trong khi chè đen chỉ còn 39%. “Trước đây, chè
đen từng chiếm tới 60-70%, nhưng hiện đã nhường chỗ cho sự tăng trưởng của chè
xanh”, ông Nguyễn Văn Toàn chia sẻ và cho hay: “Tại vùng trồng chè lớn như Thái
Nguyên, giá chè bán trong nước đã đạt 7-8 USD/kg, cao hơn đáng kể so với giá xuất
khẩu sang thị trường cao cấp như London chỉ khoảng 6-7 USD/kg.
Về vấn đề này, theo ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội
Chè Việt Nam, nhìn ở mức chung, chè Việt Nam xuất khẩu có giá rẻ nhưng vẫn cao
hơn giá thế giới. Theo ông Long, thế giới nhìn nhận thị trường chè Việt Nam là
thị trường giá rẻ và tìm kiếm lợi nhuận tại đây. Trong khi đó, người làm chè
đang ở tình trạng dễ mua, dễ bán nên không trau chuốt, làm mới mình mà chỉ tập
trung sản xuất để đạt thỏa thuận mua bán trước mắt.
Cũng theo ông Hoàng Vĩnh Long, mảng nội tiêu chúng ta làm rất
tốt, như tại các tỉnh Thái Nguyên, Hà Giang, Sơn La. Ở Thái Nguyên có loại chè
bán thấp nhất ở giá bình quân 7 USD/kg, nhưng cũng có loại chè bán với giá khoảng
hơn 20 USD. Như vậy, tính chung giá xuất khẩu và giá nội tiêu, giá chè trung
bình cả nước ở khoảng 4 USD/kg.
Để khắc phục hiện trạng chè Việt Nam dễ rơi vào “bẫy giá rẻ”
của thế giới, ông Hoàng Vĩnh Long cho rằng, cần tập trung liên kết doanh nghiệp,
HTX, nông dân, chính quyền địa phương. Tất cả cần vào cuộc để khai thác tiềm
năng, bỏ tư duy “dìm giá”, phân tán thị trường.
Từ nay đến cuối năm, xuất khẩu chè Việt Nam được dự báo phục
hồi nhờ nhu cầu từ Hoa Kỳ, Iraq và nỗ lực nâng cao chất lượng, dù vẫn đối mặt
áp lực cạnh tranh và yêu cầu xây dựng thương hiệu.
Về dài hạn, các chuyên gia cũng đưa ra nhận định, dư địa
tăng trưởng xuất khẩu còn rất lớn cho ngành chè Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng
cơ hội này, các doanh nghiệp xuất khẩu chè bên cạnh nâng cao chất lượng cần chủ
động cập nhật và đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của các thị trường nhập
khẩu nhất là quy định về kinh tế xanh và sạch, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng bền
vững.
Về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông
Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông
nghiêp và Môi trường) cho biết, theo Đề án Phát triển cây công nghiệp chủ lực đến
năm 2030, diện tích trồng chè cả nước đạt khoảng 130 - 135 nghìn ha; sản lượng
đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu tấn chè búp tươi. Giá trị xuất khẩu đạt khoảng đạt
khoảng 280 - 300 triệu USD.
Ngành Nông nghiệp và Môi trường cùng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ
chế biến sâu sản phẩm chè làm nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành công nghiệp thực
phẩm, mỹ phẩm, y tế đạt khoảng 20 - 25%. Đa dạng hóa sản phẩm chè như chè Ô
long, chè túi lọc, chè bột Matcha, Sencha bằng công nghệ và thiết bị hiện đại;
đạt trên 40% trong cơ cấu chế biến. Tỷ lệ diện tích chè được cấp mã số vùng trồng
lên khoảng 30 - 40%.
Xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến,
tiêu thụ sản phẩm, hướng đến nền sản xuất nông nghiệp bền vững, hiện đại mang lại
giá trị cao, đồng thời đẩy mạnh giới thiệu vùng sản xuất chè chủ lực trong các
sự kiện xúc tiến thương mại, quảng bá những sản phẩm chè đặc sản, tiêu biểu của
Việt Nam sẽ giúp tạo vị thế mới cho ngành chè Việt Nam.
NTXT