Chào mừng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Tình hình sản xuất, tiêu thụ và diễn biến giá cả các mặt hàng tiêu dùng trong nước

Thứ ba - 23/06/2020 08:25
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
Tình hình sản xuất, tiêu thụ và diễn biến giá cả các mặt hàng tiêu dùng trong nước

TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, TIÊU THỤ VÀ DIỄN BIẾN GIÁ CẢ CÁC MẶT HÀNG TIÊU DÙNG Ở TRONG NƯỚC

I.  NHÓM LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM

1. Thực phẩm

Khủng hoảng thiếu thịt lợn sau dịch tả lợn châu Phi (ASF) đã đẩy giá thịt lợn lên cao chưa từng có trong lịch sử ngành chăn nuôi. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội và chỉ số giá tiêu dùng.

Đặc biệt hơn là sau một thời gian lắng dịu, dịch tả lợn châu Phi đã tái phát tại 20 tỉnh, thành phố và có nguy cơ tiếp tục bùng phát, lây lan diện rộng rất lớn, ảnh hưởng đến việc tổ chức chăn nuôi tái đàn, tăng đàn lợn và bảo đảm nguồn cung thịt lợn.Theo báo cáo của cơ quan quản lý chuyên ngành thú y các địa phương, từ đầu năm 2020 đến nay, dịch tả lợn châu Phi đã tái phát tại 155 xã của 20 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy gần 4.000 con lợn.

Giá lợn hơi trên cả nước liên tục ngay từ những ngày đầu tháng 5/2020, dao động trong khoảng từ 97.000 - 105.000 đ/kg.

Theo các chuyên gia, giá lợn hơi đi ngược lại các chỉ đạo, khuyến nghị của Chính phủ, nguyên nhân chính từ mất cân đối cung - cầu. Bên cạnh đó, việc tăng nguồn cung trong nước bằng tái đàn, tăng đàn hiện gặp rất nhiều khó khăn do giá con giống rất cao, bệnh dịch tả lợn châu Phi có nguy cơ tái bùng phát đe doạ tới hiệu quả chăn nuôi.

Trong tháng 5/2020, giá gia cầm đang phục hồi khá tốt và chưa có dấu hiệu dừng lại. Cụ thể, giá vịt tăng từ 30.000 - 31.000 đ/kg lên 35.000 - 36.000 đ/kg rồi lên tiếp 38.000 - 40.000 đ/kg, tăng từ 8.000 – 12.000 đ/kg so với đầu tháng 4/2020; Gà lông màu lai tăng từ 44.000 - 46.000 đ/kg lên 58.000 - 60.000 đ/kg; Gà lông màu thuần ổn định ở mức xung quanh 85.000 - 90.000 đ/kg; Gà Tam Hoàng tăng từ 40.000 đ/kg lên 43.000 - 44.000 đ/kg và gà lông trắng tăng từ dưới 30.000 đ/kg lên 32.000 - 35.000 đ/kg.

2. Mặt hàng gạo

2.1 Thị trường trong nước

- Tình hình sản xuất: Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lúa Đông Xuân vùng ĐBSCL năm nay ước đạt 68,2 tạ/ha (tăng 0,4 tạ/ha so với vụ Đông Xuân trước); sản lượng đạt 10,55 triệu tấn (giảm 329,8 nghìn tấn). Tính đến giữa tháng 4/2020, các địa phương phía Nam gieo sạ được 602,2 nghìn ha lúa Hè Thu (bằng 96,8% cùng kỳ năm trước), trong đó vùng ĐBSCL đạt 589,8 nghìn ha (bằng 96,8%).

- Diễn biến giá

Tại một số địa phương, các thương nhân thu gom nhiều loại lúa thường để chế biến thành gạo trắng xuất khẩu và dự trữ, do đó đã khiến giá tăng lên, đặc biệt là ngay sau khi Chính phủ cho phép xuất khẩu gạo bình thường trở lại vào đầu tháng 5/2020.

Theo đó, giá gạo xuất khẩu tăng nhẹ; gạo nguyên liệu IR 504 hè thu 8.300 - 8.350 đ/kg, tăng 150 đ/kg so với mức giá đầu tháng 5/2020. 

Loại gạo thành phẩm IR 504 hè thu 9.900 – 10.000 đồng/kg (tăng 50 - 100 đg/kg); riêng tấm loại 1 IR 504 Hè thu ổn định ở mức 7.700 đ/kg và cám vàng ổn định ở mức 5.200 đ/kg.

Ngành gạo Việt Nam được dự báo sẽ thuận lợi khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, nhiều mặt hàng xuất khẩu sẽ được giảm thuế về 0% như: gạo tấm, các sản phẩm từ hạt,…

- Tình hình xuất khẩu

Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, trong hai tuần đầu tháng 5/2020, lượng gạo đã xuất khẩu đạt hơn 525 nghìn tấn, trị giá hơn 276 triệu USD, tăng 16 lần về lượng và tăng 18,3 lần về giá trị so với cùng kỳ tháng trước.

Giá xuất khẩu gạo bình quân trong hai tuần đầu tháng 5/2020 đạt 526 USD/tấn, tăng 13,7% so với cùng kỳ tháng trước.

Đặc biệt, gạo xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tăng rất mạnh, với mức tăng 130,8% về lượng và tăng 171% về kim ngạch, đạt 273,5 nghìn tấn, tương đương 158 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân đạt 577,8 USD/tấn, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2020, dự báo sản lượng gạo của Trung Quốc giảm khoảng 1,8 triệu tấn, xuống còn 146,7 triệu tấn do đó gạo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này vẫn còn có rất nhiều cơ hội.

2.2 Thị trường thế giới

Xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2020 dự báo tăng 0,2 triệu tấn.

Tại thị trường châu Á, giá gạo trắng xuất khẩu của Việt Nam giữ ở gần mức cao nhất một năm nhờ nhu cầu tăng trong khi nguồn cung thấp. Giá gạo Ấn Độ lên cao nhất một năm sau hợp đồng nhập khẩu kỷ lục của Malaysia và nhu cầu tăng từ một số nước châu Phi. Giá gạo Thái tăng nhẹ do giá Baht lên cao nhất hơn hai tháng qua.

Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam giữ ở gần mức cao nhất một năm, đạt 450 – 460 USD/tấn. Nguồn cung vụ mới dự báo sẽ vẫn ở mức tương tự như vụ Đông Xuân trước.

Xuất khẩu gạo đã được khơi thông, các doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ cơ hội giá tốt để xuất khẩu. Hiện giá xuất khẩu gạo của Việt Nam ngang bằng với Pakistan, cao hơn Ấn Độ nhưng vẫn thấp hơn Thái Lan.

3. Mặt hàng sữa                                                              

Thị trường trong nước

Trong tháng 5/2020, giá sữa bán lẻ trong nước tiếp tục ổn định.  

Để khuyến khích tăng tiêu thụ sữa trong giai đoạn mới ứng phó với dịch Covid-19, nhiều siêu thị đang thực hiện các chương trình khuyến mãi, giảm giá các sản phẩm sữa. Chẳng hạn, nhiều loại sữa tiệt trùng đang được khuyến mãi tại AEON Mall. Sữa Nan Optipro có giá 54.000 đ/lốc 4 hộp; sữa Vinamilk có đường giảm còn 29.000 đ/lốc 4 hộp; sữa ít béo Meadow Fresh 1l giá 40.500 đ/hộp; sữa nguyên kem Australia's Own 1l còn 40.000 đ/hộp.

Dự báo, nguồn cung sản xuất trong nước và nhập khẩu tiếp tục dồi dào đảm bảo đủ cung cấp cho người tiêu dùng. Giá sữa thế giới có xu hướng giảm trong bối cảnh nguồn cung dư thừa do ảnh hưởng từ dịch Covid-19. Vì vậy, trong thời gian tới, giá sữa trong nước sẽ không có nhiều biến động, thậm chí điều chỉnh giảm hoặc các doanh nghiệp tăng khuyến mại nhằm khuyến khích tiêu thụ.

- Tình hình xuất khẩu

Về thị trường, kim ngạch xuất khẩu sữa sang hầu hết các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Irăc đạt 49,7 triệu USD, tăng 14,4%. Xuất khẩu sang thị trường Afganistan tăng 16,9%; Campuchia tăng 20,1%; Nhật Bản tăng mạnh 5,4 lần (448,4%). Xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường mới là Cuba đạt 1,06 nghìn USD, Xu Đăng đạt 2,15 triệu USD. Riêng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt khoảng 2,63 triệu USD, giảm 56%.

* Dự báo:

Những ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 dự báo sẽ tác động rõ nét hơn tới hoạt động thương mại của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa nói riêng trong quý II/2020. Mặc dù vậy, nếu dịch bệnh được khống chế trong quý II/2020, hoạt động xuất khẩu sữa sẽ có nhiều khởi sắc nhờ nhu cầu tiêu thụ trên thế giới tăng trở lại cộng với những lợi thế cạnh tranh khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực.

EVFTA cũng mở ra cơ hội cho các công ty sữa Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với công nghệ sản xuất và nguyên liệu sữa từ Châu Âu vốn được đánh giá cao về chất lượng và an toàn thực phẩm.

II. NHÓM NGUYÊN NHIÊN LIỆU

1. Mặt hàng xăng dầu

-  Tình hình xuất khẩu

Nửa đầu tháng 5/2020, lượng dầu thô xuất khẩu đạt 105 nghìn tấn, kim ngạch đạt 23,3 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến 15/5/2020 xuất khẩu dầu thô đạt 1,8 triệu tấn, kim ngạch đạt 593,7 triệu USD.

Trước đó, lượng dầu thô xuất khẩu trong tháng 4/2020 đạt 421,9 nghìn tấn, kim ngạch đạt 54,1 triệu USD, tăng 6,8% về lượng nhưng giảm 68,9% kim ngạch so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu dầu thô đạt 1,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 579 triệu USD, tăng 24,1% về lượng nhưng giảm 17,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá xuất khẩu dầu thô tháng 4/2020 đạt 128,3 USD/tấn, giảm 76,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

-  Tình hình nhập khẩu

Giá nhập khẩu dầu thô tháng 4/2020 đạt 243,6 USD/tấn, giảm 52,7% so với cùng kỳ năm trước.

Nửa đầu tháng 5/2020, giá nhập khẩu xăng dầu các loại đều giảm mạnh so với cùng kỳ tháng trước. Cụ thể, giá dầu mazut giảm 2,2% xuống 206,4 USD/tấn; giá dầu diesel giảm 15,9% xuống 242,9 USD/tấn; giá nhiên liệu bay giảm 30,3% xuống 206,4 USD/tấn; riêng giá xăng tăng 6,5% lên 208,9 USD/tấn.

1.2 Thị trường thế giới

Giá dầu thô thế giới trong tháng 5/2020 đã liên tục tăng nhờ vào việc nới lỏng các biện pháp phong tỏa, nhiều quốc gia mở cửa lại nền kinh tế. Cùng với đó, nguồn cung dầu thô giảm, dự trữ dầu thô của Mỹ cũng giảm mạnh. Tuy nhiên đà đi lên của giá dầu bị hạn chế bởi lo ngại căng thẳng gia tăng giữa Mỹ - Trung Quốc về kế hoạch áp đặt luật an ninh đối với Hồng Kông và khả năng trừng phạt từ Washington.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo tồn kho dầu sẽ bắt đầu giảm trong nửa cuối năm 2020. Tuy nhiên, nỗi lo về làn sóng đại dịch Covid-19 lần thứ hai vẫn tiếp tục tạo áp lực lên giá dầu thô.

* Dự báo: Dữ trữ dầu thô của Mỹ giảm trong khi sự lạc quan về việc hồi phục nhu cầu đã hỗ trợ tâm lý cho giá dầu. Cùng với đó, Fed đã cam kết nỗ lực tối đa để hỗ trợ nền kinh tế Mỹ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Tuy nhiên, căng thẳng Mỹ - Trung tiếp tục gây sức ép lên giá dầu.

2. Mặt hàng phân bón

Tháng 5/2019, giá phân bón tiếp tục xu hướng giảm do nhu cầu phân bón ở mức thấp trong khi nguồn cung dồi dào. Cụ thể giá một số chủng loại phân bón như sau:

Tại các tỉnh phía Bắc, giá Urea Phú Mỹ giảm 5,8% so với tháng trước, xuống mức 6.400-6.500 đ/kg; giá Urea TQ giảm 5,9% xuống còn là 6.400 đ/kg.

Tại Đà Nẵng, giá Urea Phú Mỹ giảm 4,5% xuống còn 6.300 đ/kg; giá Urea TQ giảm 4,5% xuống còn 6.300 đ/kg. Tại Qui Nhơn, giá Urea Phú Mỹ giảm 4,5% xuống còn 6.300 đ/kg; giá Urea TQ giảm 4,5% xuống còn 6.300 đ/kg.

Tại Tp.Hồ Chí Minh, giá Urea Phú Mỹ giảm 7,5% xuống còn 6.200 đ/kg; giá Urea TQ giảm 7,5% xuống còn 6.200 đ/kg; giá DAP Phú Mỹ là 12.700-12.900 đ/kg.

Tại Tiền Giang, giá Urea Phú Mỹ giảm 6,6% xuống còn 6.400 đ/kg; giá Urea TQ giảm 7,3% xuống còn 6.350 đ/kg.

+ Giá nhập khẩu: Nửa đầu tháng 5/2020, giá các chủng loại phân bón nhập khẩu tăng giảm trái chiều so với cùng kỳ tháng trước. Cụ thể, giá Urea giảm 20,2% xuống 269,8 USD/tấn; giá NPK giảm 8,8% xuống 371,2 USD/tấn; giá Kali giảm 9% xuống 271,9 USD/tấn; Trong khi giá DAP tăng 7,7% lên 350 USD/tấn; giá SA tăng 0,6% lên 109,1 USD/tấn.

* Dự báo: Nhu cầu phân bón thấp trong khi nguồn cung dồi dào cộng với giá nhập khẩu giảm và giá nguyên liệu đầu vào vẫn ở mức thấp nên giá phân bón có thể tiếp tục ổn định.

3. Mặt hàng thức ăn chăn nuôi

3.1 Thị trường trong nước

Trong tháng 5/2020, giá một số loại thức ăn chăn nuôi thành phẩm ổn định sau khi tăng nhẹ vào tháng trước. Thức ăn đậm đặc Proconco loại cho gà thịt là 14.700 đ/kg; cám cho gà con là 12.000 – 14.500 đ/kg; cám cho gà thịt từ 10.000 – 14.000 đ/kg; cám cho gà đẻ là 10.000 – 12.500 đ/kg; thức ăn hỗn hợp Proconco loại cho lợn từ 30 kg đến xuất chuồng là 11.500 – 14.000 đ/kg; cám cho lợn nhỡ từ 15 kg - 30 kg có giá 9.500 – 13.000 đ/kg; cám cho lợn từ 30 kg - xuất chuồng là 9.500 – 13.000 đ/kg.

 Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 4/2020 đạt 302 triệu USD, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 9,61% so với cùng tháng năm ngoái.

3.2 Thị trường thế giới

Giá đậu tương giảm do dự báo tồn trữ toàn cầu dồi dào và nhu cầu giảm. Theo USDA, doanh số xuất khẩu đậu tương sang Trung Quốc trong tuần kết thúc ngày 14/5/2020 đạt 1,199 triệu tấn, song không có thỏa thuận mới kể từ sau đó. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn Chicago giảm xuống còn 332,1 USD/tấn, giảm 1,7 USD/tấn so với tháng trước, kỳ hạn tháng 8/2020 là 333 USD/tấn.

Giá ngô tại Hoa Kỳ tăng trở lại sau khi giảm xuống mức thấp nhất hơn 10 năm do diện tích trồng ngô của Hoa Kỳ thấp hơn so với dự báo. Mưa ở khắp khu vực châu Âu làm gia tăng kỳ vọng năng suất cây trồng được cải thiện sau hạn hán, song thời tiết khô kéo dài ở khắp khu vực Biển Đen. Giá ngô CBOT giao kỳ hạn tháng 6/2020 tăng 1,2% lên 168,8 USD/tấn; giao tháng 7/2020 là 169,6 USD/tấn; giao tháng 8/2020 là 170,1 USD/tấn.

Giá lúa mì tại Hoa Kỳ giảm do thời tiết tại một số nước xuất khẩu chủ yếu được cải thiện và nhu cầu giảm do đại dịch Covid-19 gây áp lực cho thị trường. Giá lúa mỳ CBOT giao tháng 6/2020 là 179 USD/tấn, giảm 3,2 USD/tấn; giao tháng 7/2020 là 182,6 USD/tấn, giảm 3,3 USD/tấn và giao tháng 8/2020 là 183,2 USD/tấn.

* Dự báo:

Dịch Covid – 19 được khống chế tốt, hoạt động nhập khẩu nguyên liệu TĂCN dần được cải thiện sẽ khiến giá thức ăn chăn nuôi thành phẩm trong nước có thể ổn định trong thời gian tới.

III.  NHÓM VẬT LIỆU XÂY DỰNG

1. Mặt hàng thép

- Tình hình sản xuất, kinh doanh

Thị trường thép trong nước tiếp tục đối mặt với thách thức trong thời kỳ hậu Covid-19 do các ngành sản xuất sử dụng thép như xây dựng, hạ tầng cơ sở, ôtô, xe máy, điện tử… chưa thể sớm hồi phục, trong khi nhu cầu ở nước ngoài suy yếu khiến tình hình xuất khẩu thép bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, từ cuối quý II/2020, sản xuất và bán hàng thép trong nước, đặc biệt là thép xây dựng, có thể khởi sắc nhờ dịch bệnh đã được kiểm soát tốt và gói đầu tư công sẽ được triển khai.

Mặc dù vậy đầu quý III/2020 là mùa mưa - giai đoạn thấp điểm của xây dựng sẽ khiến tiêu thụ thép sẽ gặp khó khăn. Ngoài ra, mặt hàng thép sẽ phải cạnh tranh với thép xuất khẩu của Trung Quốc với giá rẻ do Bộ Tài chính Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng mức hoàn thuế đối với 1.084 hàng hóa xuất khẩu lên 13% và với 380 mặt hàng lên 10% kể từ ngày 20/3/2020.

+ Diến biến giá:

Thép phế liệu: Giá thép phế HMS ½ 80:20 nhập khẩu cảng Đông Á ở mức 250-252 USD/tấn CFR Đông Á. Mức giá này giảm nhẹ 3 USD/tấn so với hồi đầu tháng 4/2020. Nhìn chung, giá thép phế chào bán tại thị trường Châu Âu, Châu Mỹ có xu hướng đi ngang, riêng Châu Á tăng mạnh.

Cuộn cán nóng HRC ở mức 402USD/tấn, CFR cảng Đông Á, tương đương với mức giá dịch đầu tháng 4, sau khi giảm sâu ở mức 50-55 USD/tấn so với mức giá hồi đầu tháng 3/2020. Mức giá HRC hiện tại đã giảm 90-92 USD/tấn so với đầu năm 2020.

Giá thép xây dựng tại các nhà máy giảm từ 200 – 385 đồng/kg tùy từng chủng loại và nhà sản xuất.

Hiện nay giá bán tại các nhà máy sản xuất thép ở mức 10.000 – 12.400 đồng/kg (giá giao tại nhà máy, chưa bao gồm 10% VAT). Giá thép xây dựng bán lẻ tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 10.200 – 12.800 đồng/kg. Tại các tỉnh miền Nam giá bán dao động từ 11.000 – 13.000 đồng/kg.

- Tình hình xuất nhập khẩu

+ Nhập khẩu:

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, lượng sắt thép các loại nhập khẩu về Việt Nam trong nửa đầu tháng 5/2020 đạt hơn 607 nghìn tấn với trị giá hơn 366 triệu USD, giảm 15,4% về lượng và giảm 16,9% về trị giá so với cùng kỳ tháng trước. Giá nhập khẩu bình quân sắt thép các loại đạt hơn 603 USD/tấn, giảm 1,8% so với cùng kỳ tháng trước.

Trước đó, trong 4 tháng đầu năm 2020, nhập khẩu sắt thép các loại giảm 4,6% về lượng và giảm 13,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2019, đạt 4,4 triệu tấn, trị giá trên 2,7 tỉ USD. Giá sắt thép nhập khẩu đạt 610 USD/tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm 2019.

Trong 4 tháng đầu năm 2020, nhập khẩu sắt thép từ Trung Quốc - thị trường lớn nhất, giảm rất mạnh 21,1% về lượng, giảm 23,7% về kim ngạch, đạt 1,5 triệu tấn, tương đương 932,9 triệu USD, giá nhập khẩu trung bình đạt 605 USD/tấn, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xuất khẩu:

Theo số liệu thống kê, xuất khẩu sắt thép các loại của Việt Nam trong nửa đầu tháng 5/2020 đạt hơn 142 nghìn tấn với kim ngạch hơn 73 triệu USD, giảm 41,2% về lượng và 44,3% về trị giá so với cùng kỳ tháng trước. Giá xuất khẩu bình quân đạt hơn 512 USD/tấn, giảm 5,3% so với cùng kỳ tháng trước.

Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu 2,58 triệu tấn sắt thép, kim ngạch đạt trên 1,42 tỉ USD, giá trung bình 551,2 USD/tấn, tăng 10,6% về lượng, nhưng giảm 5,5% về kim ngạch và giảm 14,5% về giá so với 4 tháng đầu năm 2019.

2. Mặt hàng xi măng

- Tình hình sản xuất

Trong tháng 5/2020, sản xuất và tiêu thụ xi măng được cải thiện đáng kể khi Chính phủ nới lỏng các quy định cách ly xã hội; đồng thời các giải pháp hỗ trợ sau dịch sẽ được Chính phủ đưa ra kích cầu để tăng trưởng kinh tế khi đại dịch được kiểm soát trong thời gian tới.

Nếu hoạt động đầu tư công triển khai hết gói vốn khoảng 700.000 tỷ đồng trong năm nay như chỉ đạo của Chính phủ thì 6 tháng cuối năm sẽ là giai đoạn khởi sắc của ngành vật liệu xây dựng nói chung và ngành xi măng nói riêng.

Để tháo gỡ khó khăn cho nhóm ngành sản xuất vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng đã tập hợp ý kiến của nhiều doanh nghiệp, hội, hiệp hội nghề nghiệp và đề nghị một số hình thức hỗ trợ như được giảm thuế VAT xuống còn 5%, giảm lãi suất vay ngân hàng; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoãn, lùi thời hạn nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, tiền thuê đất, bảo hiểm xã hội...

Ngoài ra, các địa phương cũng cần thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư, tiếp tục có chương trình phù hợp nhằm kích cầu, tăng tiêu dùng nội địa. Bản thân các doanh nghiệp giai đoạn này cần chủ động tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu mới để mở rộng hoặc thay thế thị trường cũ.

Trong nửa cuối năm 2020, dự kiến sẽ có 2 nhà máy mới đi vào vận hành với công suất 8 triệu tấn/năm (tương đương với 9% tổng công suất xi măng của Việt Nam hiện tại) gồm: Nhà máy 2 triệu tấn/năm của Xi măng Tân Thắng (Nghệ An, đã vận hành ra sản phẩm tháng 4/2020), dây chuyền mở rộng 2,5 triệu tấn/năm của Xi măng Long Sơn (Thanh Hóa) dự kiến vận hành vào cuối năm 2020 đầu năm 2021.

Đến cuối năm nay, cả nước sẽ có 90 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất đạt 105 triệu tấn, hoàn toàn có khả năng sản xuất xi măng, đáp ứng đủ gồm cả xi măng tiêu thụ nội địa và clinker, xi măng xuất khẩu.

Tuy nhiên, lượng công suất tăng thêm này có thể khiến nguồn cung dư thừa, gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (chủ yếu là cạnh tranh về giá).

- Tình hình xuất khẩu

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2020 lượng xuất khẩu xi măng và clinker đạt 2,8 triệu tấn trị giá gần 96 triệu USD tăng 3,9 % về lượng nhưng giảm 5,1% về trị giá so với tháng trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm, lượng xuất khẩu xi măng đạt hơn 10,5 triệu tấn, trị giá gần 395 triệu USD giảm 7,1% về lượng và giảm 17,9% về trị giá so với cùng kỳ.

Sau đại dịch, nhu cầu xuất khẩu sẽ hồi phục chậm do áp lực tồn kho cao tại nhiều quốc gia trong khu vực trong giai đoạn đầu năm 2020, dẫn tới tình hình cạnh tranh gia tăng trên thị trường xuất khẩu xi măng trong thời gian tới.

            - Diễn biến giá: Trong tháng 5/2020, giá xi măng trên thị trường khá ổn định do nguồn cung dồi dào trong khi nhu cầu cầu tiêu chưa tăng mạnh. Hiện giá bán xi măng các loại PCB30 và PCB40 tại các máng xuất của các Công ty xi măng giao động phổ biến ở mức 1.295.000 đ/tấn đến 1.630.000 đ/tấn tùy từng chủng loại, thương hiệu.

IV. MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM VÀ DỊCH VỤ Y TẾ

1. Mặt hàng dược phẩm

Giá thuốc trên thị trường trong tháng 5/2020 vẫn được duy trì ổn định, đáp ứng đủ thuốc cung ứng cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu điều trị của nhân dân, đảm bảo đủ thuốc phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh. Cùng với đó, các dụng cụ, thiết bị vệ sinh y tế cơ bản đáp ứng đủ phục vụ nhu cầu phòng dịch của người dân.

Nửa đầu tháng 5/2020, kim ngạch nhập khẩu dược phẩm vào nước ta đạt 159,4 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến 15/5/2020 nhập khẩu dược phẩm đạt 1.158 triệu USD.

Trước đó, tổng kim ngạch nhập khẩu dược phẩm vào nước ta đạt 1.001 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái.

- Tình hình nhập khẩu NPL dược phẩm: Nửa đầu tháng 5/2020, kim ngạch nhập khẩu NPL dược phẩm đạt gần 26,2 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến 15/5/2020 nhập khẩu dược phẩm đạt 182,2 triệu USD. Trước đó, trong 4 tháng đầu năm 2020, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dược phẩm của nước ta đạt 156 triệu USD, giảm 11,5% so cùng kỳ năm trước.

Về thị trường: Trong 4 tháng đầu năm 2020, Việt Nam nhập khẩu nguyên phụ liệu dược phẩm chủ yếu từ thị trường Trung Quốc, chiếm 72% tổng kim ngạch, đạt 112,4 triệu USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ 2019. Đứng thứ hai là thị trường Ấn Độ đạt 21,3 triệu USD, giảm 11,7% so với cùng kỳ 2019. Thứ ba là thị trường Thụy Sỹ đạt 3,6 triệu USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2019.

2. Dịch vụ y tế

Theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 4/2020 chỉ số giá thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03% so với tháng trước và tăng 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, chỉ số giá dịch vụ y tế không thay đổi so với tháng trước nhưng vẫn tăng 0,32% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,25% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, chỉ số giá dịch vụ y tế tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập

Hôm nay

13,363

Tổng lượt truy cập

1,571,767
Hình 1
App
Chuyển đổi số
Ngày quốc gia
Chủ động
Video sp
Bộ công thương
FTA
mail
đảng bộ
cải cách
Tổng đài
Trung tâm xúc tiến
Công đoàn
Hỏi đáp
Đồng nai
Hiệp định
Fake new
Bộ pháp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây