Chào mừng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Kết luận 115-KL/TW ngày 16 tháng 01 năm 2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế

Thứ sáu - 13/06/2025 19:14
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
Ngày 16 tháng 01 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 115-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị khoá XII về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Kết luận này được đưa ra sau khi xem xét Báo cáo sơ kết 5 năm của Ban Kinh tế Trung ương và ý kiến của các cơ quan, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tối ưu hóa nguồn lực trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Ngày 16 tháng 01 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 115-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị khoá XII về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Kết luận này được đưa ra sau khi xem xét Báo cáo sơ kết 5 năm của Ban Kinh tế Trung ương và ý kiến của các cơ quan, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tối ưu hóa nguồn lực trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW: Thành tựu và những tồn tại

Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 39-NQ/TW, hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đã có những cải thiện đáng kể. Điều này đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức chưa từng có do biến động trong nước và quốc tế, đặc biệt là tác động của đại dịch Covid-19. Nền kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, tăng trưởng được thúc đẩy, an sinh xã hội được đảm bảo, quốc phòng – an ninh vững chắc và hội nhập quốc tế được tăng cường.

Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đã được chú trọng phát triển toàn diện. Nguồn vật lực, bao gồm tài nguyên thiên nhiên và hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, được huy động, đầu tư, khai thác và sử dụng đồng bộ, hiệu quả hơn. Các nguồn tài lực như tài chính công, tiền tệ, ngân hàng, thị trường chứng khoán, bảo hiểm và tài sản công cũng ghi nhận những bước mở rộng và phát triển tích cực.

Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế còn tồn tại. Hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực nhìn chung vẫn còn thấp, chưa tạo ra đột phá về tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Nguồn lực con người và văn hóa chưa được phát huy tối đa để trở thành động lực nội sinh quan trọng nhất. Nhiều tài nguyên thiên nhiên bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, có nguy cơ suy thoái, cạn kiệt. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn thiếu hụt, chưa đồng bộ và hiện đại. Quy mô tài chính còn nhỏ, thiếu tính bền vững. Tình trạng lãng phí trong quản lý và sử dụng nguồn lực vẫn còn phổ biến, tạo rào cản, nút thắt cho sự phát triển, khiến năng suất lao động, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhiều cơ hội phát triển bị bỏ lỡ, nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình ngày càng hiện hữu.

Định hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn mới

Với tầm nhìn chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 39-NQ/TW và các nghị quyết của Đảng về quản lý, sử dụng các nguồn lực. Đồng thời, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách và tạo nền tảng cho phát triển bền vững, lâu dài, bao gồm:

-  Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách: Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh theo hướng tháo gỡ điểm nghẽn, kiến tạo phát triển, huy động tối đa mọi nguồn lực. Đặc biệt, dứt khoát bỏ tư duy "không quản được thì cấm", đảm bảo tính minh bạch, nhất quán và tầm nhìn của pháp luật. Tinh gọn bộ máy quản lý, tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát.

-  Kiểm kê, đánh giá và xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn lực: Khẩn trương thực hiện công tác kiểm kê, đánh giá, cập nhật đầy đủ các nguồn lực (vật chất và phi vật chất, truyền thống và hiện đại). Xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông, số hóa làm nền tảng cho hoạch định chiến lược và chính sách. Giải quyết dứt điểm các vấn đề như quy hoạch treo, dự án vướng mắc, đất công không sử dụng.

-  Hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực truyền thống:

+    Nguồn nhân lực: Đẩy mạnh đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ. Tập trung phát triển nhân lực cho các ngành ưu tiên, mới nổi (AI, bán dẫn, đường sắt tốc độ cao...). Có chính sách đột phá thu hút, đãi ngộ chuyên gia, sớm thực hiện trả lương gắn với năng suất.

+    Nguồn vật lực: Hoàn thiện cơ chế, chính sách áp dụng nguyên tắc kinh tế thị trường trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh thăm dò, kiểm kê, đánh giá toàn diện tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đất hiếm. Có cơ chế vượt trội để hình thành, làm chủ các chuỗi giá trị quan trọng như điện tử, chip bán dẫn, công nghiệp bô-xít. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Rà soát quy hoạch năng lượng, phát triển điện gió ngoài khơi, điện hạt nhân, hệ thống lưới điện thông minh. Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, bao gồm cao tốc, đường sắt cao tốc Bắc - Nam, cảng hàng không quốc tế. Đổi mới mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cơ cấu lại tổ chức tín dụng.

+    Nguồn tài lực: Cải thiện hệ thống thuế, nghiên cứu ban hành thuế tài sản. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng đầu tư phát triển. Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia, quản lý nợ hiệu quả. Khuyến khích người dân đầu tư kinh doanh thay vì tích trữ vàng, hạn chế đầu cơ bất động sản. Xây dựng hệ sinh thái tài chính toàn diện, đa dạng kênh đầu tư. Thu hút có chọn lọc và sử dụng hiệu quả vốn FDI. Mở rộng dự trữ quốc gia thành công cụ điều tiết thị trường.

-  Phát huy hiệu quả các nguồn lực mới, tạo đột phá:

+    Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW để tạo xung lực mới và đột phá phát triển. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ để sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực, chống lãng phí.

+    Văn hóa, lịch sử, truyền thống, cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa chiến lược: Tăng cường phối hợp đa chiều để phát huy lợi thế vị trí địa chiến lược của Việt Nam. Triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

+    Thương hiệu quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam: Xây dựng chiến lược thương hiệu quốc gia tầm cỡ. Khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng, phát triển thương hiệu và hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt.

Kết luận của Bộ Chính trị một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đổi mới tư duy, hành động để khai thác tối đa mọi tiềm năng, nguồn lực, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới./.


Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập

Hôm nay

5,903

Tổng lượt truy cập

1,119,237
Hình 1
App
Chuyển đổi số
Ngày quốc gia
Chủ động
Video sp
Bộ công thương
FTA
mail
đảng bộ
cải cách
Tổng đài
Trung tâm xúc tiến
Công đoàn
Hỏi đáp
Đồng nai
Hiệp định
Fake new
Bộ pháp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây