Chào mừng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Bản tin thị trường Tháng 3/2019

Thứ tư - 10/04/2019 16:31
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
- Cao su: Giá cao su trong nước giảm theo giá thế giới. Xuất khẩu cao su tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Ấn Độ tiếp tục đẩy mạnh nhập khẩu cao su tự nhiên từ Việt Nam, thị phần cao su Việt Nam tăng. - Cà phê: Giá cà phê nhân xô trong nước tháng 3/2019 giảm theo xu hướng giá thế giới. Nhật Bản tăng mạnh nhập khẩu cà phê từ Bra-xin, giảm nhập khẩu từ Việt Nam. - Hạt điều: Giá hạt điều tươi trong nước tháng 3/2019 tăng nhẹ so với tháng 2/2019; giá hạt điều khô giảm. Tháng 1/2019, thị phần hạt điều Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ tăng. - Sắn và sản phẩm sắn: Giá sắn trong nước cuối tháng 3/2019 tăng nhẹ so với đầu tháng. - Gỗ và sản phẩm gỗ: Thị phần đồ nội thất bằng gỗ Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ tăng mạnh. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong 3 tháng đầu năm 2019 ước tăng 17% so với cùng kỳ năm 2018.
 

​         THỊ TRƯỜNG CAO SU

1. Thị trường thế giới

Trong tháng 3/2019, giá cáo su trên thị trường thế giới biến động theo xu hướng giảm do nhu cầu chậm và nhà đầu tư đẩy mạnh bán ra trước khi Trung Quốc giảm thuế giá trị gia tăng vào ngày 01/4/2019. Doanh số bán ô tô tháng 2/2019 tại Trung Quốc giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2018, đánh dấu tháng giảm thứ 8 liên tiếp. Bên cạnh đó, việc Thái Lan dự kiến sẽ hoãn thực hiện kế hoạch hạn chế xuất khẩu hàng hóa thêm hơn một tháng cũng tác động lên thị trường. Xuất khẩu cao su của Thái Lan tiếp tục tăng. Theo Cơ quan Hải quan Thái Lan, tháng 2/2019, xuất khẩu cao su của Thái Lan đạt 467,69 nghìn tấn, trị giá 18,85 tỷ Baht (tương đương 592,61 triệu USD), tăng 3,7% về lượng nhưng giảm 7,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a và Nhật Bản là 3 thị trường xuất khẩu cao su chính của Thái Lan. Trong tháng 2/2019, xuất khẩu cao su của Thái Lan sang Trung Quốc đạt 269,24 nghìn tấn, trị giá 10,69 tỷ Baht (tương đương 336,12 triệu USD), tăng 3,4% về lượng nhưng giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 57,6% thị phần xuất khẩu cao su của Thái Lan, giảm nhẹ so với mức 57,7% của cùng kỳ năm 2018. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2019 Thái Lan xuất khẩu được 913,33 nghìn tấn cao su, trị giá 37,04 tỷ Baht (tương đương 1,16 tỷ USD), tăng 0,7% về lượng nhưng giảm 10,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 480,32 nghìn tấn, trị giá 19,25 tỷ Baht (tương đương với 605,36 triệu USD), giảm 1,7% về lượng và giảm 13,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

Trong 2 tháng đầu năm 2019, Thái Lan xuất khẩu được 586,08 nghìn tấn cao su tự nhiên (mã HS: 4001) giảm 5,6% so với cùng kỳ năm 2018, chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, Ma-lai-xi-a và Nhật Bản, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 199,91 nghìn tấn, chiếm 34,1% lượng cao su tự nhiên xuất khẩu của Thái Lan. Lượng cao su tổng hợp (mã HS: 4002) xuất khẩu của Thái Lan đạt 298,39 nghìn tấn, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 2018, chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, Ma-lai-xi-a và Nhật Bản, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 88,4% lượng cao su tổng hợp xuất khẩu của Thái Lan với 236,76 nghìn tấn, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2018. (Tỷ giá: 1 Baht = 0,03144 USD).

2. Thị trường trong nước

Tháng 3/2019, giá mủ cao su nguyên liệu tại Bình Phước, Bình Dương và Tây Ninh có xu hướng giảm theo thị trường thế giới. Ngày 29/3/2019, tại Đắk Lắk giá thu mua mủ cao su nước tại vườn và nhà máy đạt lần lượt 233 đ/độ TSC và 238 đ/độ TSC, giảm 27 đ/độ TSC so với cuối tháng 2/2019.

         3. Tình hình xuất khẩu cao su của Việt Nam

Theo ước tính, xuất khẩu cao su trong tháng 3/2019 đạt 110 nghìn tấn, trị giá 152 triệu USD, tăng 38,3% về lượng và tăng 44,5% về trị giá so với tháng 2/2019, tăng 43,5% về lượng và tăng 32,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân giảm 7,6% so với cùng kỳ năm 2018 xuống còn 1.318 USD/tấn. Tính chung 3 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu cao su ước đạt 347 nghìn tấn, trị giá 457 triệu USD, tăng 32% về lượng và tăng 17 ,7% về trị giá so với cùng kỳ năm  2018.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 2/2019, xuất khẩu hầu hết các chủng loại cao su đều tăng so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, xuất khẩu cao su tổng hợp đạt 42,52 nghìn tấn, trị giá 56,2 triệu USD, tăng 102,3% về lượng và tăng 79,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 53,5% trong tổng khối lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam trong tháng. Cao su Skim block xuất khẩu tăng 2.366%, cao su SVR 20 xuất khẩu tăng 315,6%, cao su SVR 3L tăng 42,9%... Ngược lại, lượng cao su CVR 5 xuất khẩu giảm 30%, SVR CV 50 xuất khẩu giảm 7,6%.

 THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ

1. Thị trường cà phê thế giới  


BANTIN.png?t=1762423302

Tháng 3/2019, thị trường cà phê toàn cầu vẫn chịu áp lực dư cung, giá giảm. Theo thống kê của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), trong 4 tháng đầu niên vụ 2018/19, xuất khẩu cà phê của Việt Nam dự kiến tăng 6,1% lên 9,5 triệu bao trong khi xuất khẩu của In-đô-nê-xi-a giảm 27,6%, xuống còn 1,7 triệu bao và Ấn Độ giảm 19% xuống 1,54 triệu bao. Tuy nhiên, sản lượng cà phê Việt Nam trong giai đoạn này ước tính giảm 3,4% xuống còn 29,5 triệu bao do thời tiết xấu.

         2. Thị trường cà phê trong nước, giá giảm sâu

Những năm gần đây, diện tích trồng cà phê Robusta đang được mở rộng ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ... Cà phê Arabica cũng phát triển ở tỉnh Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.

Thị trường cà phê Việt Nam cũng chịu tác động mạnh do áp lực dư cung khiến giá cà phê toàn cầu liên tục giảm. Tháng 3/2019, giá cà phê nhân xô trong nước tiếp tục xu hướng giảm. Chốt phiên giao dịch ngày 30/3/2019, giá cà phê nhân xô giảm từ 2,3 - 4,8% so với ngày 28/2/2019, xuống mức thấp nhất là 31.400 đ/kg ở huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; mức cao nhất 32.400 đ/kg tại huyện Cư M’gar tỉnh Đắk Lắk. Trong khi đó, tại các kho quanh khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30/3/2019, giá cà phê Robusta loại R1 giảm 2,3% so với ngày 28/2/2019, xuống mức 33.500 đ/kg.

Sản lượng của Ấn Độ ước tính cũng giảm 10,5% xuống còn 5,2 triệu bao do lũ lụt vào cuối mùa hè năm 2018, trong khi sản lượng của In-đô-nê-xi-a dự báo tăng 5,7%, đạt 11,1 triệu bao.

Xuất khẩu cà phê Robusta trong tháng 2/2019 của In-đô-nê-xi-a tăng 39.154 bao (tương đương mức tăng 41,1%) so với cùng kỳ năm 2018, đạt 134.512 bao. Lũy kế xuất khẩu cà phê Robusta của In-đô-nê-xi-a trong 5 tháng đầu tiên của niên vụ cà phê 2018/19 đạt tổng cộng 889.852 bao, giảm 306.467 bao (tương đương mức giảm 25,6%) so với cùng kỳ niên vụ cà phê 2017/2018.

Về dài hạn, giá cà phê toàn cầu sẽ phục hồi trở lại. Hiện mức giá thấp kéo dài đã khiến nông dân trồng cà phê trên thế giới không mặn mà đầu tư chăm bón vụ tới nên dự kiến xu hướng thặng dư nhẹ trên toàn cầu có thể chuyển sang thiếu hụt.

3. Xuất khẩu cà phê quý I/2019 giảm so với cùng kỳ năm 2018

Theo ước tính, xuất khẩu cà phê tháng 3/2019 đạt 160 nghìn tấn, trị giá 278 triệu USD, tăng 39% về lượng và tăng 39,3% về trị giá so với tháng 2/2019, nhưng giảm 24% về lượng và giảm 31,4% về trị giá so với tháng 3/2018. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2019 xuất khẩu cà phê đạt 477 nghìn tấn, trị giá 830 triệu USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 23,8% về trị giá so với 3 tháng đầu năm 2018.

Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng cà phê trong tháng 3/2019 đạt mức 1.738 USD/tấn, tăng 0.2% so với tháng 2/2019, nhưng giảm 9,7% so với thán 3/2018. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2019, giá xuất khẩu bình quân mặt hàng cà phê đạt mức 1.739 USD/tấn, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2018.

4. Dung lượng thị trường nhập khẩu cà phê Nhật Bản năm 2018 và thị phần của Việt Nam

Theo số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Nhật Bản, nhập khẩu cà phê của Nhật Bản 2 tháng đầu năm 2019 đạt 77,7 nghìn tấn, trị giá 24,11 tỷ Yen (tương đương 217,95 triệu USD), tăng 25,4% về lượng và tăng 10% về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2018. Trong đó:

 Nhật Bản nhập khẩu chủ yếu cà phê Robusta nhân xô với lượng đạt 75,8 nghìn tấn, trị giá 21,89 tỷ Yen (tương đương 197,87 triệu USD), tăng 25,5% về lượng và tăng 11,4% về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2018. Tính riêng tháng 2/2019, nhập khẩu cà phê Robusta nhân xô Nhật Bản đạt 42,9 nghìn tấn, trị giá 12,41 tỷ Yen (tương đương 112,22 triệu USD), tăng 48,9% về lượng và tăng 33,2% về trị giá so với tháng 2/2018. Trong khi đó, Nhật Bản giảm nhập khẩu các chủng loại cà phê khác.

Việt Nam đứng ở vị trí nhà cung cấp cà phê lớn thứ 2 cho Nhật Bản, nhưng lượng nhập khẩu chỉ bằng 1/2 so với lượng nhập khẩu từ Bra-xin và tốc độ nhập khẩu giảm 1,7% về lượng và giảm 18,8% về trị giá, do đó cà phê Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu Nhật Bản giảm từ 26,7% thị phần 2 tháng đầu năm 2018, xuống còn 20,9% thị phần 2 tháng đầu năm 2019.

Mặc dù nhập khẩu cà phê Nhật Bản từ Việt Nam giảm trong 2 tháng đầu năm 2019, nhưng đây vẫn là thị trường đầy tiềm năng đối với ngành cà phê nước ta. Dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản còn rất lớn. Theo Hiệp hội thương mại cà phê Nhật Bản, nhập khẩu cà phê nhân xô Robusta Nhật Bản ngày càng gia tăng là do nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng hương vị cà phê ngon và có giá thành thấp hơn này.

Tại Nhật Bản, cà phê Robusta chủ yếu được sử dụng để sản xuất loại cà phê hòa tan và thường được bán theo gói nhỏ, phổ biến trong các hộ gia đình có một hoặc hai thành viên, hiện là nhóm tiêu dùng có xu hướng tăng. Theo công ty sản xuất thực phẩm và đồ uống Ajinomoto, cà phê hòa tan phải có đủ vị mạnh, đậm đà và đắng để cân bằng với độ ngọt của bột kem và đường. Đó là lý do loại cà phê Robusta được ưa chuộng.

Bên cạnh đó, cà phê Robusta cũng đang giành được vị trí trong thị trường cà phê tự rang xay do các nhà cung cấp trộn chúng với loại cà phê Arabica để làm giảm giá thành. Cà phê Robusta cũng được sử dụng nhiều hơn ở các quán cà phê và trong sản phẩm của các thương hiệu riêng có giá bình dân cho các nhà bán lẻ.

Khoảng cách địa lý gần cũng tạo lợi thế cho Việt Nam và cà phê Robusta của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Các tuyến tàu biển từ Việt Nam và các nhà sản xuất khác trong khu vực chỉ mất nửa thời gian so với cà phê Arabica từ các nước Mỹ La-tinh tới Nhật Bản. Và trong số các nhà sản xuất cà phê Đông Nam Á,  Việt Nam có cơ sở sản xuất lớn hơn nên tạo được nguồn cung ổn định hơn.

Mặc dù cà phê Robusa chắc chắn không thể thay thế được hoàn toàn cà phê Arabica, nhưng trong thời gian tới sẽ có sự gia tăng nhu cầu đối với các nhãn hiệu cà phê Arabica-Robusta.

Việt Nam đang hướng tới mở rộng thị phần cà phê bằng việc tăng sản lượng hạt trên mỗi cây cà phê. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho biết, sản xuất cà phê của Việt Nam trong năm tài chính 2018 tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, đạt kỷ lục 30,4 triệu bao 60 kg.

Nhu cầu nội địa đang tiếp thêm động lực cho đầu ra cà phê Việt Nam, với việc nhiều cửa hàng cà phê là điểm tụ tập ưa thích của những người trẻ, và kiểu cà phê hòa tan ba trong một, gồm cà phê bột, đường và sữa bột lại là sở thích của người lao động.

Trong khi đó, chuyên gia tư vấn của hãng buôn cà phê đặc sản có trụ sở tại Tokyo Wataru and Co cho rằng, ngay cả khi nhu cầu cà phê Arabica của người tiêu dùng Nhật Bản không đổi, cà phê Việt Nam sẽ có được thuận lợi trong một thị trường đang ngày càng bị phân cực giữa hai xu thế cao cấp và bình dân.

THỊ TRƯỜNG HẠT ĐIỀU

          1. Thị trường hạt điều thế giới

Tại cảng Delhi của Ấn Độ, tháng 3/2019 giá hạt điều ổn định so với tháng 2/2019. Ngày 29/3/2019, giá hạt điều loại WW180 và WW210 giữ ổn định ở mức 1.060 Rs/kg (tương đương 15,3 USD/kg) và 955 Rs/kg (tương đương 13,8 USD/kg); giá hạt điều loại WW240 và WW320 ổn định ở mức 787,5 Rs/kg (tương đương 11,3 USD/kg) và 715 Rs/ kg (tương đương 10,3 USD/kg); giá hạt điều nhân vỡ hai mảnh ổn định ở mức 692,5 Rs/kg (tương đương 10 USD/kg).

         2. Giá hạt điều trong nước giảm mạnh

Tại Việt Nam, giá hạt điều giảm mạnh, hiện chỉ bằng 50% so với cùng kỳ năm 2018. Tại Bình Phước, giá hạt điều tươi thu mua tại vườn ở mức 28.500 - 30.000 đồng/kg, giao tại nhà máy có mức giá 30.000 - 32.000 đồng/kg, tăng nhẹ so với mức giá 20.000 - 24.000 đồng/kg thời điểm cuối tháng 2/2019, nhưng giảm mạnh so với mức giá 40.000 - 42.000 đồng/kg năm 2018. Giá hạt điều khô giảm 3.000 đồng/kg so với tháng 2/2019, xuống còn khoảng 36.000 đồng/kg, giảm mạnh so với mức giá 50.000 đồng/kg năm 2018.

Tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, giá hạt điều cao hơn các khu vực khác do chất lượng tốt hơn, giao thông thuận tiện, nhưng giá giữa tháng 3/2019, hạt điều tươi thu mua tại vườn giá 32.000 - 33.000 đồng/ kg, cuối tháng giá chỉ còn 29.500 đồng/ kg, giảm 2.500 - 3.500 đồng/kg. Hiện vào mùa thu hoạch rộ, nhiều chủ vườn lo ngại giá càng thấp càng dễ bị thương lái ép giá.

        3. Tháng 3/2019, giá xuất khẩu trung bình hạt điều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2018

Theo ước tính, xuất khẩu hạt điều tháng 3/2019 đạt 30 nghìn tấn, trị giá 234 triệu USD, tăng 103,2% về lượng và tăng 90,3% về trị giá so với tháng 2/2019, so với tháng 3/2018 tăng 5,6% về lượng, nhưng giảm 18% về trị giá. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu hạt điều đạt 78 nghìn tấn, trị giá 625 triệu USD, tăng 4,7% về lượng, nhưng giảm 17,2% về trị giá so với 3 tháng đầu năm 2018.

Giá xuất khẩu bình quân hạt điều tháng 3/2019 đạt 7.800 USD/tấn, giảm 6,4% so với tháng 2/2019, so với tháng 3/2018 giảm 22,3%. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2019, giá xuất khẩu bình quân hạt điều đạt mức 8.043 USD/tấn, giảm 20,9% so với 3 tháng đầu năm 2018.

Về chủng loại: Tháng 2/2019, xuất khẩu hạt điều loại W320 của Việt Nam đạt 6,79 nghìn tấn, trị giá 59,69 triệu USD, tăng 18,4% về lượng, nhưng giảm 5,7% về trị giá so với tháng 2/2018. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu hạt điều loại W320 đạt 22,2 nghìn tấn, trị giá 189,74 triệu USD, giảm 2,3% về lượng và giảm 21,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

2 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu một số chủng loại hạt điều tăng về lượng, nhưng giảm về trị giá so với 2 tháng đầu năm 2018, gồm hạt điều loại W240 và loại WS/WB. Đáng chú ý, xuất khẩu hạt điều loại SP và W180 tăng rất mạnh.

Giá xuất khẩu bình quân hạt điều loại W180 trong 2 tháng đầu năm 2019 đạt mức cao nhất 10.222 USD/tấn, giảm 26,7%; loại W210 đạt 9.544 USD/tấn, giảm 17%. Trong khi đó, giá xuất khẩu hạt điều loại W320 và W240 đạt lần lượt 8.539  USD/tấn và 9.292 USD/tấn.

         4. Dung lượng thị trường nhập khẩu hạt điều Hoa Kỳ tháng 1/2019 và thị phần của Việt Nam

Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, nhập khẩu hạt điều của nước này trong tháng 1/2019 đạt trên 11 nghìn tấn, trị giá 92,23 triệu USD, tăng 10,3% về lượng và tăng 9,2% về trị giá so với tháng 12/2018, nhưng giảm 4,3% về lượng và giảm 24% về trị giá so với tháng 1/2018. Trong đó:

Việt Nam là thị trường cung cấp hạt điều lớn nhất cho Hoa Kỳ. Tháng 1/2019, thị phần hạt điều Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu Hoa Kỳ chiếm 81,6%, tăng so với 79,8% thị phần tháng 12/2018 và 78,9% thị phần tháng 1/2018.

Bra-xin là nguồn cung hạt điều lớn thứ 2 cho Hoa Kỳ, lượng nhập khẩu đạt 632 tấn, thấp hơn nhiều so với 9.053 tấn nhập khẩu từ Việt Nam, trị giá 5,07 triệu USD, giảm 4,6% về lượng và giảm 8,7% về trị giá so với tháng 12/2018, so với tháng 1/2018 tăng 6% về lượng, nhưng giảm 19,3% về trị giá. Thị phần hạt điều Bra-xin chiếm tỷ trọng 5,7% trong tổng lượng nhập khẩu Hoa Kỳ tháng 1/2019, thấp hơn so với 6,6% thị phần tháng 12/2018, nhưng cao hơn so với 5,1% thị phần tháng 1/2018.

Dựa trên số liệu phân tích trên có thể thấy, ngành hạt điều Việt Nam đang giữ vững vị trí số 1 tại Hoa Kỳ, và chiếm lợi thế cạnh tranh cao hơn so với các đối thủ như Bra-xin, Ấn Độ, Bờ Biển Ngà. Triển vọng xuất khẩu hạt điều sang Hoa Kỳ thời gian tới tương đối khả quan, giá hạt điều toàn cầu được dự báo sẽ phục hồi nhẹ trong quý II/2019.

Để gia tăng giá trị xuất khẩu hạt điều sang Hoa Kỳ, ngành điều Việt Nam cần khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa năng lực chế biến và sản lượng sản xuất nội địa. Để giữ vững vị thế dẫn đầu thế giới, ngành điều Việt Nam cần phải tập trung cải thiện năng suất và chất lượng hạt điều, từ đó tìm kiếm cơ hội tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

THỊ TRƯỜNG GỖ VÀ SẢN PHẨM GỖ

1.Thị trường gỗ và sản phẩm gỗ thế giới

Theo báo cáo từ The Business Research Company, thị trường đồ nội thất gia đình thế giới dự báo sẽ tăng trưởng với tốc độ hàng năm khoảng 8% và đạt gần 347 tỷ USD vào năm 2023. Các yếu tố chính thúc đẩy sự tăng vực lớn nhất trong thị trường nội thất gia trưởng thị trường đồ nội thất gia đình đình năm 2018, chiếm khoảng 42% tổng như: Thị trường xây dựng nhà ở tăng, trị giá. Tiếp theo là Tây Âu, Bắc Mỹ và tỉ lệ sử dụng Internet tăng, thay đổi lối các khu vực khác. sống, nhu cầu sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng tăng.

Thị trường đồ nội thất gia định không tập trung, phân mảnh, với mười đối thủ cạnh tranh chiếm khoảng 12% tổng thị trường năm 2017. Các công ty lớn trên thị trường đồ nội thất gia định là Inter IKEA Holding B.V., Ashley Furniture Industries, Inc., La-Z-Boy Incorporates, Steelcase Inc., Man Wah Holdings Limited và các công ty khác. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực lớn nhất trong thị trường nội thất gia đình năm 2018, chiếm khoảng 42% tổng trị giá. Tiếp theo là Tây Âu, Bắc Mỹ và các khu vực khác.

2. Tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ

Theo số liệu thống kê, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 3/2019 ước đạt 900 triệu USD, tăng 124,4% so với tháng trước, tăng 23,6% so với tháng 3/2018. Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 615 triệu USD, tăng 135,1% so với tháng trước, tăng 20,4% so với tháng 3/2018. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 3/2019, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam ước đạt 2,3 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2018. Trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 1,6 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2018.

Mặt hàng xuất khẩu chính

Mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng xuất khẩu chính trong 2 tháng đầu năm 2019, trị giá đạt 895,4 triệu USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm tới 64,6% tổng trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Hầu hết các mặt hàng trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu đều có trị giá tăng trong 2 tháng đầu năm 2019, trừ mặt hàng đồ nội thất nhà bếp.

       - Trong đó, dẫn đầu về trị giá xuất khẩu là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn đạt 283,3 triệu USD, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2018. Mặt hàng này xuất khẩu chủ yếu tới một số thị trường chính như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Ca-na-đa, Hàn Quốc. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này tới Mỹ chiếm tới 57% tổng trị giá xuất khẩu đồ nội thất phòng khách và phòng ăn của Việt Nam.

       - Mặt hàng ghế khung gỗ xuất khẩu trị giá tốc độ tăng trưởng cao nhất trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ trong 2 tháng đầu năm 2019, đạt 257,8 triệU USD, tăng 34,8% so với cùng kỳ năm 2018. Ghế khung gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 61,2% tổng trị giá xuất khẩu ghế khung gỗ của Việt Nam, tiếp theo là các thị trường khác như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc , Úc...

      - Đồ nội thất phòng ngủ xuất khẩu có trị giá đứng ở vị trí thứ hai trong 2 tháng đầu năm 2019, đạt 263,5 triệu USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2018. Mặt hàng đồ nội thất phòng ngủ chủ yếu xuất khẩu tới thị trường Hoa Kỳ, đạt 198,5 triệu USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm 2018. Đáng chú ý, theo Furniture Today, tại Hoa Kỳ, xu hướng lựa chọn thị trường cung cấp thay thế cho thị trường Trung Quốc ngày càng tăng trong phân khúc thị trường đồ nội thất phòng ngủ, nên nhiều nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ đang chuyển nguồn cung từ Trung Quốc sang các thị trường khác như: Việt Nam, Đài Loan, In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a. Các sản phẩm giường tùy chỉnh, giường hộp đang tăng trưởng mạnh tại Hoa Kỳ. Xu hướng và cơ hội tại thị trường Hoa Kỳ là định hướng chính để doanh nghiệp xuất khẩu đồ nội thất của Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới, bởi Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu chủ yếu đối với mặt hàng đồ nội thất phòng ngủ của Việt Nam.

     - Đối với mặt hàng đồ nội thất văn phòng, sau một năm giảm liên tiếp trong xuất khẩu, thì sang tới 2 tháng đầu năm 2019 trị giá xuất khẩu đồ nội thất văn phòng của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt, đạt 51 triệu USD, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm 2018. Nhu cầu tiêu thụ đồ nội thất văn phòng được CSIL dự báo tiếp tục tăng trong năm 2019 và 2020, là cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam mở rộng thị phần xuất khẩu trên thị trường thế giới. Theo CSIL dự báo, nhu cầu đồ nội thất văn phòng trên toàn cầu dự báo tăng trưởng 3% trong năm 2019 và 2020, trong đó khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Đặc biệt tốc độ tăng trưởng mạnh là thị trường Trung Quốc và Ấn Độ, bên cạnh đó thị trường truyền thống như Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ tăng nhẹ.

Ngoài các mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm 2019, còn một số mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu khác như: Dăm gỗ, gỗ, ván và ván sàn, cửa gỗ, khung gương, đồ gỗ mỹ nghệ...

3. Dung lượng thị trường nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ Hoa Kỳ và thị phần của Việt Nam

Theo số liệu từ Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Hoa Kỳ trong tháng 01/2019 đạt 1,73 tỷ USD, giảm 10,8% so với tháng trước, tăng 2,8% so với tháng 01/2018.

Thị trường nhập khẩu:

Trong tháng 01/2019, Hoa Kỳ nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ từ thị trường Trung Quốc trị giá 755,3 triệu USD, giảm 10,8% so với tháng 12/2018, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2018. Tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc giảm 5,6% so với tháng 01/2018. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, thâm hụt thương mại của nước này đã giảm gần 15% trong tháng 1/2019 so với tháng 12/2018, do nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm. Trong đó, thâm hụt thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc lớn nhất đạt 5,5 tỷ USD trong tháng 1/2019. Tổng thống Hoa Kỳ Donal Trump theo đuổi biện pháp bảo hộ thương mại nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn đang “trả đũa” lẫn nhau bằng thuế trong nhiều tháng qua. Như vậy, căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng có những tác động tới hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, đặc biệt là mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ. Trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Hoa Kỳ từ Việt Nam trong tháng 01/2019 đạt 437,1 triệu USD, tăng 12% so với tháng 12/2018, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2018. Đáng chú ý, tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam tăng thêm 5% so với tháng 1/2018.

Ngoài ra, trong tháng 01/2019 Hoa Kỳ còn nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ từ một số thị trường khác như: Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Ma-lai-xi-a, Ý...

Mặt hàng nhập khẩu

Tiếp theo là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn (mã HS 940360). Hoa Kỳ nhập khẩu trong tháng 01/2019 trị giá 535,5 triệu USD, giảm 13% so với tháng trước, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm tới 30,9% tổng trị giá nhập khẩu đồ nội thất phòng khác và phòng ăn của Hoa Kỳ. Trung Quốc và Việt Nam là hai thị trườn chính cung cấp mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn cho thị trường Hoa Kỳ. Trong đó trị giá nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 363,6 triệu USD, giảm 29,3% so với tháng trước, giảm 12,6% so với cùng kỳ năm 2018. Trị giá nhập khẩu từ Việt Nam đạt 135,5 triệu USD, tăng 4% so với tháng 12/2018, tăng 27,6% so với tháng 01/2018.

TIN CHÍNH SÁCH/CHUYÊN ĐỀ

In-đô-nê-xi-a và Úc ký kết  Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện (CEPA)

Ngày 04/3/2019, In-đô-nê-xi-a và Úc đã chính thức kí Hiệp định Đối tác

Kinh tế Toàn diện (CEPA) tại Jakarta, In-đô-nê-xi-a. Theo Hiệp định IA-CEPA thì In-đô-nê-xi-a cam kết loại bỏ 94% các dòng thuế (tariffs) đối với hàng hóa nhập khẩu từ Úc, sẽ là cơ hội cho các mặt hàng như thịt bò, các sản phẩm gia súc, cừu, đường và các sản phẩm sữa của Úc thâm nhập vào thị trường In-đô-nê-xi-a. Hiệp định cũng cho phép các ngành dịch vụ của Úc như các dịch vụ về giáo dục, khai khoáng, y tế tiếp cận với thị trường đông dân nhất ASEAN. Đổi lại, Úc cam kết sẽ loại bỏ 100% các dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ In-đô-nê-xi-a, qua đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm thế mạnh của In-đô-nê-xi-a như các sản phẩm dệt may, len, đồ gỗ, ô tô, đồ điện tử và dược phẩm sang thị trường Úc.

Việc ký kết Hiệp định IA-CEPA là một cột mốc mới trong quan hệ song phương In-đô-nê-xi-a và Úc do Hiệp định IA-CEPA không những chỉ có các thỏa thuận về thương mại, dịch vụ và đầu tư mà còn bao gồm cả về hợp tác kinh tế rộng lớn hơn. Hiện nay, quan hệ thương mại song phương giữa hai quốc gia đã đạt hơn 8,6 tỉ USD năm 2018. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của In-đô-nê-xi-a chiếm 1,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của Úc và xuất khẩu hàng hóa của Úc chiếm 3,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của In-đô-nê-xi-a. Tuy nhiên, khi Hiệp định IA-CEPA được kí kết và có hiệu lực, Úc và In-đô-nê-xi-a sẽ có nhiều cơ hội để trở thành những siêu cường quốc về kinh tế trên thế giới. Hiệp định IA-CEPA cũng được dự báo sẽ làm tăng thêm 0,23% tổng GDP cho In-đô-nê-xi-a, đồng thời mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, dịch vụ và các nhà đầu tư của hai bên.   

Đáng chú ý, Hiệp định IA-CEPA cũng mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của In-đô-nê-xi-a sang Úc. Tất cả các sản phẩm của In-đô-nê-xi-a xuất khẩu sang thị trường Úc sẽ không phải chịu thuế nhập khẩu. Một trong những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh và tiềm năng của In-đô-nê-xi-a sang Úc là sản phẩm ô tô, đặc biệt là ô tô điện và xe hybrid. Hiệp định IA-CEPA đã đưa ra các yêu cầu về tiêu chuẩn (QVC) dễ dàng hơn cho xe điện và xe hybrid từ In-đô-nê-xi-a xuất khẩu sang Úc so với các quốc gia khác. Điều này làm cho ngành công nghiệp ô tô của In-đô-nê-xi-a có thêm sức cạnh tranh đối với việc xuất khẩu xe điện và xe hybrid sang Úc. Ngoài ra, các sản phẩm khác của In-đô-nê-xi-a như gỗ, đồ nội thất, hàng dệt may, lốp xe, dược phẩm, máy móc và thiết bị điện tử, giấy, cà phê, dầu cọ,… cũng sẽ có thêm sức cạnh tranh tại thị trường Úc. Ngược lại, Úc cũng có cơ hội tăng xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh như gia súc sống, thịt bò đông lạnh, sản phẩm từ bơ sữa, cà rốt, khoai tây, thép cuộn và dịch vụ sang In-đô-nê-xi-a.    

Hiệp định IA-CEPA rõ ràng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả In-đô-nê-xi-a và Úc, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, Việt Nam cũng như các nước ASEAN khác, chắc chắn ngoài những khó khăn, thách thức do phải cạnh tranh với các sản phẩm của In-đô-nê-xi-a tại thị trường Úc, thì ta cũng có thể tận dụng cơ hội này, thông qua In-đô-nê-xi-a, để đẩy mạnh xuất khẩu gián tiếp sang Úc. Các doanh nghiệp Việt Nam cần: (i) tận dụng tốt các ưu đãi của Hiệp định AANZFTA với Úc và Niu Di-lân đã ký năm 2009 để có thể tăng xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di-lân nhằm cạnh tranh với hàng hóa của In-đô-nê-xi-a tại thị trường Úc; (ii) tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Úc thông qua các chương trình xúc tiến thương mại, các hoạt động giao thương, hội chợ, quảng bá sản phẩm; đồng thời, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tận dụng các quy định cụ thể trong Hiệp định IA-CEPA, nhất là trong chuỗi cung ứng toàn cầu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang In-đô-nê-xi-a, đặc biệt là có thể tận dụng xuất khẩu những mặt hàng là nguyên liệu, bán sản phẩm, do thời gian tới, hàng xuất khẩu của In-đô-nê-xi-a sang Úc sẽ tăng mạnh, do đó, nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu của In-đô-nê-xi-a từ các nước khác, trong đó có khu vực ASEAN sẽ tăng cao; (iii) chủ động nắm bắt thông tin thị trường, cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giảm giá thành, đặc biệt cần đáp ứng tốt các tiêu chuẩn kĩ thuật về vệ sinh, kiểm dịch và an toàn thực phẩm… để tăng sức cạnh tranh với các quốc gia khác, đặc biệt là với các sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ In-đô-nê-xi-a trên thị trường Úc; (iv) tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các cơ quan liên quan để xử lý những vấn đề còn tồn tại để tận dụng triệt để những ưu đãi của các FTAs mà Việt Nam đã ký kết nhằm tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam.

Lưu ý: Thông tin sử dụng trong bản tin được thu thập từ những nguồn mà chúng tôi cho là đáng tin cậy. Thông tin trong bản tin chỉ mang tính tham khảo, các ước tính, dự báo có giá trị đến ngày ra báo cáo và có thể thay đổi bởi những biến động thị trường. 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập

Hôm nay

1,205

Tổng lượt truy cập

1,559,609
Hình 1
App
Chuyển đổi số
Ngày quốc gia
Chủ động
Video sp
Bộ công thương
FTA
mail
đảng bộ
cải cách
Tổng đài
Trung tâm xúc tiến
Công đoàn
Hỏi đáp
Đồng nai
Hiệp định
Fake new
Bộ pháp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây