Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 10 vẫn đang gặp khó khăn như các tháng đầu năm, do tình hình bất ổn chính trị trên thế giới, tình hình chiến tranh Dải Gaza bùng phát có nguy cơ lan rộng, Nga và Ucraina vẫn diễn biến hết sức phức tạp; tình hình lạm phát trên thế giới, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá nhiên liệu tăng từ đó ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn. Nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó do thiếu đơn hàng đặc biệt là các ngành sản xuất đồ gỗ, dệt may, da giày, điện tử v.v…, các doanh nghiệp đã nỗ lực tìm kiếm, khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm để duy trì sản xuất, vì vậy dự ước tháng 10 chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tăng so tháng trước tuy nhiên tăng thấp.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2023 tăng 1,53% so tháng trước, Trong đó: Khai khoáng bằng 100%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,2%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 13,62%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước giảm 0,03%.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2023 tăng 4,61% so cùng kỳ đây là mức tăng thấp nhất so với 10 tháng của nhiều năm qua; trong đó ngành khai khoáng tăng 4,75%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,38%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 25,18% (đây là ngành có mức giảm nhiều nhất do các Doanh nghiệp sản xuất điện năm 2023 có kế hoạch sản xuất giảm); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 6,82%; Dự ước 10 tháng năm 2023 có 22/27 ngành sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ nhưng hầu hết tăng thấp: Ngành chế biến thực phẩm, đồ uống; Dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất da và các sản phẩm liên quan; Sản phẩm kim loại, sản xuất máy móc thiết bị.v.v. đây là những ngành công nghiệp chủ lực gặp khó khăn tăng trưởng thấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số sản xuất toàn ngành. Dự báo tình hình sản xuất công nghiệp những tháng cuối năm 2023 còn tiếp tục gặp khó khăn, chưa có dấu hiệu khả quan hơn.
Một số ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 10 tháng năm 2023 đạt mức tăng khá so cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 7,25%, Chế biến thực phẩm tăng 5,84%; Dệt tăng 4,61%; May mặc tăng 6,13%; sản xuất hóa chất tăng 4,81%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 8,26%.v.v…một số ngành sản xuất khác chỉ số sản xuất tăng như: sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7,29%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 5,24%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 11,55%; sản xuất thiết bị điện tăng 5,92%, sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 6,39%.v.v… Tuy nhiên mức tăng trưởng của các ngành này 10 tháng năm nay thấp hơn rất nhiều so với các năm trước.
Một số ngành sản xuất dự ước chỉ số sản xuất 10 tháng giảm so cùng kỳ như: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (-1,93%); Sản xuất và phân phối điện, khí đột, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí (-10,22%) … nguyên nhân giảm do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn do đơn hàng sản xuất giảm mạnh, đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp từ đầu năm đến nay đơn hàng rất ít, chưa có đơn hàng mới nên chỉ số sản xuất giảm mạnh so cùng kỳ. Riêng ngành sản xuất phân phối điện sản lượng sản xuất giảm so cùng kỳ do kế hoạch sản xuất theo phân bổ của tập đoàn Điện lực Việt Nam năm nay giảm đáng kể, ngành sản xuất phân phối điện ở Đồng Nai chiếm tỷ trọng khá lớn nhưng ngành điện giảm đã ảnh hưởng đáng kể đến chỉ số sản xuất toàn ngành.
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: Dự ước tháng 10 năm 2023 có 22/24 sản phẩm chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Cà phê các loại đạt 36,3 ngàn tấn, tăng 2,66%; thức ăn gia súc đạt 241,8 nghìn tấn, tăng 5,98%; nước ngọt các loại 22,5 triệu lít, tăng 6,68%; vải các loại đạt 47,3 triệu m2, tăng 6,82%, quần áo may sẵn đạt 20,4 triệu cái, tăng 8,01%, giầy dép các loại đạt 35,4 triệu đôi, tăng 7,56%.
Lũy kế 10 tháng năm 2023 có 19/24 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có chỉ số sản phẩm tăng so cùng kỳ đó là: Đá xây dựng các loại 15.357,7 nghìn m3, tăng 4,68%; bột ngọt 230,6 nghìn tấn, tăng 5,08%; nước ngọt các loại 224,6 triệu lít, tăng 3,12%; sợi các loại 859,6 ngàn tấn, tăng 4,79%; Vải các loại 489,4 triệu m2, tăng 9,31%; quần áo may sẵn đạt 197,8 triệu cái, tăng 5,54%; giầy dép các loại 356,2 triệu đôi, tăng 5,30%; sản phẩm kim loại 362,1 ngàn tấn, tăng 6,29%, v.v…; Một số sản phẩm 10 tháng chỉ số sản phẩm giảm như: Ván ép, gỗ cưa, gỗ lạng đạt 550 1000 m3, giảm 1,5%; Mạch điển tử, tủ điện, sản phẩm điện tử khác đạt 1.766,5 triệu chiếc, giảm 5,54%; Giường, tủ, bàn ghế đạt 8.053,4 1000 chiếc, giảm 3,81%, .v.v… Nguyên nhân tăng thấp và giảm là do đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường Mỹ và các nước EU giảm, cụ thể một số doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn như da giày, dệt may (công ty Changshin, Việt Vinh, Pouchen.v.v). mặt khác do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn. Đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp từ đầu năm đến nay đơn hàng mới rất ít, hầu như Doanh nghiệp dừng hoạt động thời gian dài, một số đơn hàng đã ký nhưng phải ngưng do đối tác không có khả năng thanh toán vì tài chính khó khăn.