1. Thị trường trái cây
1.1 Tình hình sản xuất
Năm 2019, thời tiết nhìn chung khá thuận lợi cho cây trồng phát triển, năng suất cải thiện khiến sản lượng nhiều loại trái cây tăng so với năm trước. Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến sản lượng trái cây tăng cao chính là xu hướng chuyển đổi canh tác từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây ăn quả có giá trị cao hơn, diện tích một số loại trái cây tăng nhanh chóng. Từ đầu năm 2019 đến tháng 12/2019, các tỉnh ĐBSCL đã chuyển đổi hơn 12.593 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái; trong đó cây mít có diện tích trồng tăng 4 thêm nhiều nhất với 4.728 ha, kế đến là xoài 1.470 ha, cam xoàn 1.470 ha, thanh long 1.234 ha. Tương tự, tại một số tỉnh phía Bắc nhƣ Bắc Giang, Hưng Yên, Sơn La, diện tích trồng các loại trái cây có múi cũng tăng nhanh chóng.
Do đó, sản lượng một số loại cây ăn quả tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước gồm:
- Thanh long: Sản lượng đạt 1242,5 nghìn tấn, tăng 162,5 nghìn tấn, tăng 15,0%.
- Cam: Sản lượng đạt 960,9 nghìn tấn, tăng 105,8 nghìn tấn, tăng 12,4%.
- Bưởi: Sản lượng đạt 779,3 nghìn tấn, tăng 119,8 nghìn tấn, tăng 18,2%.
- Dừa: Sản lượng đạt 1641,9 nghìn tấn, tăng 71,4 nghìn tấn, tăng 4,5%.
- Xoài: Sản lượng đạt 814,8 nghìn tấn, tăng 23,0 nghìn tấn, tăng 2,9% so với năm 2018.
Bên cạnh đó, vẫn có một số loại trái cây giảm sản lượng như:
- Nhãn: Sản lượng đạt 507,9 nghìn tấn, giảm 35,8 nghìn tấn, giảm 6,6%.
- Vải: Sản lượng đạt 272,0 nghìn tấn, giảm 117,0 nghìn tấn, giảm 30,1%.
- Dứa: Sản lượng đạt 679,9 nghìn tấn, giảm 5,4 nghìn tấn, giảm 0,8%.
Nhìn chung trong năm 2019, giá nhiều loại trái cây ở mức thấp hơn so với năm 2018 do nguồn cung dồi dào. Đặc biệt là các loại trái cây có múi, mít Thái, thanh long, sầu riêng. Dưới đây là giá một số loại trái cây trong tháng cuối năm 2019: Tại các tỉnh phía Nam, giá nhiều loại trái cây giảm so với cùng kỳ năm trƣớc do nguồn cung dồi dào, tiêu thụ không có đột biến: bưởi Năm roi giảm 5.000 đ/kg, còn 25.000 đ/kg; đu đủ giảm 3.000 đ/kg, còn 5.000 đ/kg; mãng cầu giảm 3.000 đ/kg, còn 40.000 đ/kg; thanh long giảm 3.000 đ/kg, còn 12.000 – 20.000 đ/kg; dưa hấu giảm 1.000 đ/kg, còn 9.000 đ/kg; chôm chôm nhãn giảm 2.000 đ/kg, còn 28.000 đ/kg; nhãn Huế giảm 2.000 đ/kg, còn 13.000 – 18.000 đ/kg. Nhưng vẫn có một số loại tăng giá như: xoài cát Chu tăng 5.000 đ/kg, lên 33.000 đ/kg; xoài cát Hòa Lộc tăng 10.000 – 15.000 đ/kg, lên 85.000 đ/kg. Tại Lâm Đồng, giá trái cây tương đối ổn định: xoài keo có giá 27.000 đ/kg; xoài cát Hòa Lộc là 74.000 đ/kg; quýt đường là 53.000 đ/kg; hồng xiêm 44.000 đ/kg; thanh long ruột đỏ 28.000 đ/kg; chanh dây 23.000 đ/kg; xoài ghép 32.000 đ/kg; hồng 28.000 đ/kg; một số loại tăng giá nhẹ: cam xoàn tăng 1.000 đ/kg, lên 37.000 đ/kg; cam sành nhỏ tăng 2.000 đ/kg, lên 22.000 đ/kg; thanh long tăng 2.000 đ/kg, lên 25.000 đ/kg. Tương tự khu vực phía Nam, tại các tỉnh phía Bắc, giá nhiều loại trái cây cũng giảm nhẹ, cụ thể: dưa hấu giảm 1.000 đ/kg, còn 20.000 - 22.000 đ/kg; thanh long giảm 5.000 đ/kg, còn 25.000 – 35.000 đ/kg; cam ngọt Văn Giang 15.000 – 18.000 đ/kg, giảm 2.000 đ/kg; đu đủ có giá từ 15.000 – 20.000 đ/kg, giảm 5.000 đ/kg; nho Ninh Thuận giá 50.000 -70.000 đ/kg, giảm 5.000 đ/kg; bưởi Năm roi từ 25.000-45.000 đ/kg, giảm 5.000 đ/kg; cam xoàn 40.000 - 55.000 đ/kg, giảm 5.000 đ/kg; măng cụt 40.000 - 55.000 đ/kg.
Dưới đây là diễn biến giá cụ thể của một số chủng loại trái cây tại các địa phương:
- Thanh long: Trong năm qua, giá thanh long liên tục ở mức thấp do nguồn cung dồi dào, xuất khẩu sang Trung Quốc gặp khó khăn, giá thanh long thu mua tại vườn có lúc chỉ còn 5.000 – 6.000 đ/kg. Tuy nhiên, gần về dịp Tết Nguyên đán, nhu cầu tiêu thụ thanh long tăng cao cộng với nguồn cung thu hẹp do đang vào vụ nghịch, giá thanh long có xu hướng phục hồi mạnh mẽ. Tháng 12/2019, tại các Bình Thuận, giá thu mua thanh long ruột trắng loại I đã tăng lên 15.000 đ/kg, tăng 5.000 đ/kg so với tháng 11 và tăng gấp đôi so với tháng 9; loại II quanh mức 10.000 – 12.000 đ/kg.
- Dưa hấu: Tại một số tỉnh ĐBSCL, giá dưa hấu thu mua đầu vụ Tết ở mức khá cao, khoảng 8.000 - 10.000 đ/kg, tăng 2.000 đ/kg so với tháng 11 và tăng khoảng 1.500 – 2.000 đ/kg so với cùng kỳ năm trước. Một số tỉnh đang thu hoạch dưa hấu gồm: Vĩnh Long, Long An, An Giang.
- Dừa: Tại Bến Tre, giá dừa tươi ổn định. Giá dừa xiêm xanh thu mua tại vườn ổn định quanh mức 70.000 - 80.000 đ/12 quả; dừa xiêm lai từ 50.000 – 60.000 đ/12 quả, còn dừa dứa loại 1 là 13.000 đ/quả. Tưng tự, giá dừa khô nguyên liệu tại Bến Tre cũng giảm nhẹ, giá dừa khô nguyên liệu loại I thu mua tại vườn ở mức 105.000 đ/12 quả, giảm 10.000 đ/12 quả so với tháng 11; dừa khô loại thường có giá từ 80.000 - 100.000 đ/12 quả, giảm 5.000 – 10.000 đ/12 quả so với tháng 11. Dừa trồng theo mô hình hữu cơ thu mua ở mức 85.000 – 125.000 đồng/12 quả, cũng giảm 5.000 đ/12 quả so với tháng 11.
- Mít Thái: Tháng 12/2019, vẫn trong xu hướng tăng giá từ tháng trước, giá mít Thái tại các tỉnh vùng ĐBSCL hiện đã tăng 15.000 – 16.000 đ/kg so với tháng 11. Tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh lân cận như Vĩnh Long, Hậu Giang… hiện mít loại 1 (mít giống Thái, loại từ 9 kg/trái trở lên) có giá 36.000 - 37.000 đ/kg; mít loại 2 (từ 6 kg đến dưới 9 kg/trái) có giá 26.000 - 27.000 đ/kg; còn mít loại 3 (từ 5 kg đến dưới 6 kg/trái) có giá khoảng 19.000 - 20.000 đ/kg. Giá mít tháng 12 tăng mạnh do đang được tiểu thương và doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để phục vụ nhu cầu tiêu thụ của thị trường Trung Quốc vào dịp cuối năm.
- Bưởi: Tại khu vực phía Nam, bưởi da xanh đang vào chính vụ thu hoạch, nguồn cung dồi dào nhưng do gần về dịp cuối năm, nhu cầu tăng nên giá bưởi tăng cao so với tháng 44. Giá bưởi da xanh thu mua tại vườn dao động từ 40.000 – 45.000 đ/kg, tăng 10.000 – 15.000 đ/kg. Trước và trong dịp lễ Tết Nguyên đán, giá bưởi da xanh sẽ còn tăng cao hơn, có thể lên mức 50.000 – 60.000 đ/kg do nhu cầu tăng mạnh mẽ.
- Sầu riêng: Tại Tiền Giang, sầu riêng đang cho thu hoạch vụ nghịch, thời tiết bất lợi nên sản lượng đạt thấp, nguồn cung hạn chế khiến giá sầu riêng tăng cao. Giá thu mua sầu riêng giống Ri6 bình quân là 70.000 đ/kg, tăng 20.000 đ/kg so với tháng 11 và tăng 10.000 – 15.000 đ/kg so với cùng kỳ năm trước. Toàn tỉnh Tiền Giang có gần 9.000 ha cây sầu riêng, trồng tập trung nhiều ở các địa phương như Huyện Cai Lậy, Thị xã Cai Lậy, huyện Cái Bè. Còn tại Đăk Lăk, thời điểm nay, các nhà vườn cơ bản đã thu hoạch xong vụ sầu riêng năm 2019, tuy nhiên so với những năm trước, giá sầu riêng năm nay đã giảm khoảng 20.000 đ/kg. Nguyên nhân chính là do sầu riêng của địa phương này những năm trước chủ yếu xuất khẩu qua thị trường Trung Quốc, thì sang năm nay, xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc bị siết chặt, trong khi chưa được cấp phép xuất khẩu chính ngạch khiến nguồn cung dư thừa, giá giảm.
- Xoài: Những tháng cuối năm, thời tiết ít mưa, thuận lợi cho xoài vụ nghịch. Đến nay, một số tỉnh thành đã thu hoạch xoài, sản lượng và chất lượng quả đều tốt hơn so với cùng kỳ năm trước. Tại Khánh Hòa, giá xoài Úc loại 1 hiện dao động từ 52.000 - 55.000 đ/kg. Tương tự, giá xoài giống Đài Loan tại các tỉnh vùng ĐBSCL hiện cũng tăng từ 2.000-5.000 đ/kg so với tháng 11. Tại Tp. Cần Thơ và các tỉnh lân cận như Hậu Giang, An Giang... xoài Đài Loan (xoài bao trái, vỏ trái xoài màu vàng) có giá 35.000 - 37.000 đ/kg; xoài Đài Loan loại vỏ màu xanh có giá khoảng 25.000 - 27.000 đ/kg.
Năm nay, do xu hướng chuyển đổi canh tác từ trồng lúa sang trồng rau quả tiếp tục tăng nên diện tích rau cũng tăng. Diện tích rau màu của cả nước tăng 26,1 nghìn ha còn sản lượng tăng 855,3 nghìn tấn, lên 17,95 triệu tấn.
Năm 2019, thời tiết thuận lợi, nguồn cung rau củ dồi dào nên giá rau các loại giảm nhẹ so với năm 2018. Cụ thể giá rau tại một số địa phương như sau:
Tại Vĩnh Phúc, giá các loại rau củ giảm so với năm trước cụ thể: rau dền, rau muống giảm 1.000 đ/kg, xuống lần lượt 4.000 đ/kg; rau ngót giảm 2.000 đ/kg, xuống 6.000 đ/kg; rau mồng tới, bí xanh giảm 3.000 đ/kg, xuống 14.000 đ/kg; cà chua giảm 5.000 đ/kg, xuống 14.000 đ/kg; dưa chuột giảm 3.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg; bầu giảm 2.000 đ/kg, xuống 12.000 đ/kg;
Tại Lâm Đồng giá đa số các chủng loại đều giảm so với năm trước, cụ thể, cải thảo giảm 2.000 đ/kg, xuống 8.000 đ/kg; xà lách lolo xanh giảm 5.000 đ/kg, xuống 30.000 đ/kg; xà lách cuộn cùng giảm 5.000 đ/kg, xuống lần lượt 35.000 đ/kg; hành lá giảm 4.000 đ/kg, xuống 20.000 đ/kg; củ dền giảm 10.000 đ/kg, xuống 20.000 đ/kg; ớt sừng giảm 10.000 đ/kg, xuống 40.000 đ/kg; hoa lơ xanh giảm 2.000 đ/kg, xuống 20.000 đ/kg; cải cúc giảm 1.000 đ/kg, xuống 14.000 đ/kg.
Tại các chợ Hà Nội giá rau các loại giảm nhẹ so với năm 2018. Cụ thể, bầu xanh giảm 1.000 đ/kg, xuống 15.000 đ/kg; rau ngót giảm 2.000 đ/kg, xuống 8.000 đ/kg; cà chua giảm 2.000 đ/kg, xuống 15.000 đ/kg; dưa chuột giảm 4.000 đ/kg, xuống lần lượt 6 15.000 đ/kg; su su giảm 1.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg; cải thảo giảm 4.000 đ/kg, xuống 15.000 đ/kg. Tuy nhiên có một số loại rau tăng nhẹ như: cải xanh tăng 5.000 đ/kg, lên 11.000 đ/kg; bắp cải tăng 4.000 đ/kg, lên 7.000 đ/kg; rau muống tăng 2.000 đ/kg, lên 6.000 đ/kg; cải xanh tăng 5.000 đ/kg, lên 11.000 đ/kg; cải ngọt tăng 4.000 đ/kg, lên 12.000 đ/kg; bí xanh tăng 1.000 đ/kg, lên 15.000 đ/kg; bí đỏ tăng 2.000 đ/kg, lên 10.000 đ/kg.
Tại TP.HCM, giá rau củ các loại biến động tăng giảm tùy từng chủng loại so với năm 2018 như: cải thảo giảm 1.000 đ/kg, xuống 8.000 đ/kg; dưa leo giảm 2.000 đ/kg, xuống 9.000 đ/kg; đậu que giảm 3.000 đ/kg, xuống 20.000 đ/kg; cà chua giảm 2.000 đ/kg, xuống 17.000 đ/kg; củ hành trắng giảm 3.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg; ớt hiểm giảm 10.000 đ/kg, xuống 40.000 đ/kg.
Tại An Giang giá rau củ tăng giảm tùy từng loại rau so với năm trước, cụ thể: xà lách giảm 1.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg; bắp cải trắng giảm 1.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg; bí đao giảm 1.000 đ/kg, xuống 15.000 đ/kg; đậu bắp giảm 1.000 đ/kg, xuống 13.000 đ/kg. Tuy nhiên có một số loại rau tăng nhẹ như: cải xanh tăng 1.000 đ/kg, lên 13.000 đ/kg; rau muống tăng 1.000 đ/kg, lên 13.000 đ/kg; rau mồng tơi tăng 3.000 đ/kg, lên 9.000 đ/kg.
3. Tình hình xuất nhập khẩu rau quả
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu rau quả ước đạt 3,7 tỷ USD, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2018 (giảm so với mức tăng trưởng xuất khẩu 8,8% của năm 2018 và 42,5% năm 2017).
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giảm 13,2% so với cùng kỳ năm trước, nhưng đây vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam với 65,7% thị phần (giảm so với tỷ trọng 73,3% của cùng kỳ năm 2018. Trong khi đó, xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam sang một số thị trường chính lại tăng. Trong đó, có sự tăng trưởng rất mạnh ở những thị trường tiềm năng như: Lào tăng 570%; Hồng Kông tăng 221%; Đài Loan tăng 69,5%; Thái Lan tăng 47%; Hà Lan tăng 34,8%... so với năm 2018.
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2019 ước đạt 1,7 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2018. Cả năm 2019, ngành rau quả đã xuất siêu hơn 2 tỷ USD. Trong đó, Thái Lan và Trung Quốc vẫn là hai thị trường cung cấp rau quả lớn nhất cho Việt Nam, lần lượt chiếm 28,6% và 25,9% tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả của cả nước ta. Đáng chú ý, hoạt động tạm nhập trái cây từ Thái Lan về Việt Nam sau đó tái xuất sang Trung Quốc đã giảm mạnh trong năm vừa qua, đây cũng là nguyên nhân chính làm giảm xuất khẩu trái cây của Việt Nam.
3.1 Tình hình xuất khẩu rau quả
Theo số liệu thống kê của TCHQ, năm 2019 xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 3,7 tỷ USD, giảm 1,5% so với năm 2018. Nguyên nhân chính khiến giảm xuất khẩu rau quả là: hoạt động tạm nhập rau quả từ Thái Lan qua Việt nam sau đó tái xuất sang Trung Quốc giảm mạnh, Trung Quốc siết chặt các quy định 11 nhập khẩu rau quả tại các cửa khẩu biên giới, ảnh hưởng từ cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 2,4 tỷ USD, giảm 12,7% so với cùng kỳ năm trƣớc, chiếm 64,8% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước.
Đứng thứ hai là thị trường Hoa Kỳ đạt 150 triệu USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này. Hàn Quốc đứng thứ ba với kim ngạch đạt 131,8 triệu USD, tăng 15,8% so cùng kỳ năm 2018 và chiếm 3,5% tổng kim ngạch.
3.2 Tình hình nhập khẩu rau củ
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2019 đạt 1,7 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2018. Trong giai đoạn 2015 – 2019, nhập khẩu rau quả của Việt Nam liên tục tăng. Nguyên nhân một phần do hoạt động tạm nhập trái cây từ Thái Lan vào Việt Nam để tái xuất sang Trung Quốc, phần khác do nhu cầu tiêu thụ hàng rau quả nhập khẩu cao cấp từ các thị trường châu Mỹ, châu Âu ngày càng tăng khi thu nhập người tiêu dùng cải thiện hơn. Nhu cầu này ngày càng thể hiện rõ hơn trong năm vừa qua, khi Việt Nam đã giảm mạnh lượng trái cây tạm nhập từ Thái Lan, nhưng tổng thể nhập khẩu rau quả vẫn tăng nhẹ so với năm 2018.
Mặc dù giảm tạm nhập trái cây từ Thái Lan, nhưng đến nay, đây vẫn là thị trường cung cấp mặt hàng rau quả lớn nhất cho Việt Nam với kim ngạch đạt 486,7 triệu USD, giảm 28,5% so với năm 2018, chiếm 27,4% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2019.
Trung Quốc xếp vị trí thứ hai, với kim ngạch đạt 455,6 triêụ USD, tăng 6% so cùng kỳ năm trước, chiếm 25,6% tổng kim ngạch. Kế đến là thị trường Hoa Kỳ, đạt 303,3 triêụ USD, tăng 44,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 17,1% tổng kim ngac̣h.
Nhập khẩu rau quả từ Hoa Kỳ tăng mạnh, tăng 44,4% so với năm trước lên 303,3 triệu USD. Một số thị trường khác cũng tăng mạnh như: Myanmar tăng 98%, New Zealand tăng 41,9%, Hàn Quốc tăng 44,6%, Nam Phi tăng 66,4%, Chile tăng 93,7%...
Thương mại toàn cầu trong năm 2020 cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, trong năm 2019 vừa qua, Hoa Kỳ đã tăng thuế lên nhiều mặt hàng nông sản nhập khẩu từ Trung Quốc vào quốc gia này. Điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất nhập khẩu rau quả toàn cầu nói chung và các đối tác thương mại hàng đầu của hai quốc gia này. Tuy nhiên, sản lượng nhiều loại trái cây trong niên vụ 2019/20 dự báo sẽ tăng trưởng khả quan hơn so với niên vụ 2018-2019 do điều kiện thời tiết thuận lợi hơn, điều này sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ và xuất nhập khẩu rau quả trong niên vụ 2019-2020.
Ở trong nước, những năm gần đây, nhiều địa phương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái có hiệu quả kinh tế cao hơn, diện tích nhiều loại trái cây tăng nhanh chóng như: sầu riêng, mít Thái, cam, bưởi, quýt, vú sữa... Sang năm 2020, thời tiết dự báo có khả năng nắng nóng kéo dài, gây bất lợi cho cây trồng hơn so với năm vừa qua. Đáng chú ý, một số tỉnh ĐBSCL còn phải đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn. Hạn mặn cũng có thể đến sớm hơn so với mọi năm có thể gây ảnh hưởng lớn đến nhiều diện tích cây trồng tại đây. Theo đó, năm 2020, diện tích và sản lượng một số loại cây ăn quả dự báo sẽ giảm như: bưởi da xanh, dừa, chôm chôm…
Tuy nhiên, sang năm 2020, ngành xuất khẩu rau quả vẫn còn nhiều tiềm năng tăng trưởng bởi trong năm này, một số hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương sẽ được thực thi giúp xuất khẩu thuận lợi hơn. Dự báo xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2020 sẽ tăng hơn 10% lên hơn 4 tỷ USD.
Ở chiều ngược lại, năm 2020, nhu cầu nhập khẩu rau quả của Việt Nam vẫn trong xu hướng tăng khi nhu cầu tiêu thụ trái cây cao cấp nhập khẩu của người tiêu dùng ở thành thị tiếp tục gia tăng. Do vậy, dự báo nhập khẩu rau quả của Việt Nam sẽ còn tăng cao, đặc biệt ở các chủng loại trái cây ôn đới như táo, nho, hồng, dâu tây, kiwi, anh đào từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc; trong khi nhập khẩu trái cây từ Thái Lan sẽ còn giảm khi hoạt động tạm nhập trái cây từ thị trường này vào Việt Nam để tái xuất sang Trung Quốc giảm. Bên cạnh đó, nhập khẩu táo, lê và nho từ Trung Quốc có thể sẽ tăng do sản lượng các loại trái cây này của Trung Quốc dự báo tăng đáng kể trong niên vụ tới, trong khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ gặp khó khăn, khiến Trung Quốc đẩy mạnh tiêu thụ nội địa và tăng cường xuất khẩu sang các thị trường khác.
(Nguồn: Phòng Thương Mại Nội Địa - Trung tâm Thông tin CN&TM - Bộ Công Thương)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập