Với năng lực cạnh tranh hạn chế về nhiều mặt, chăn nuôi chế biến thịt là một trong số ít ngành nhạy cảm sẽ phải chịu bất lợi từ quá trình hội nhập và các cam kết mở cửa thị trường.
Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi đã có sự cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2000 – 2012 (giá trị sản xuất năm 2012 cao gấp 8 lần so với năm 2000; tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp tăng từ 19,4% năm 2000 lên 26,8% năm 2012).
Mặc dù vậy, từ 2012 đến nay, hoạt động chăn nuôi và sản lượng thịt các loại của Việt Nam tăng trưởng ở biên độ hẹp hơn nhiều so với giai đoạn trước. Từ sau khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam liên tục nhập siêu các sản phẩm ngành chăn nuôi, thâm hụt thương mại sản phẩm này mỗi lúc một lớn.
CPTPP có nhiều cam kết thuế quan và phi thuế quan có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản, trái cây-rau củ và sản phẩm thịt của Việt Nam. Vì vậy việc tìm hiểu các cam kết CPTPP liên quan, nhận diện các tác động của chúng tới triển vọng thị trường cũng như xu hướng phát triển của các ngành này có ý nghĩa quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng các cơ hội hấp dẫn từ CPTPP.
CPTPP là một trong 2 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao nhất mà Việt Nam ký kết cho tới thời điểm hiện tại. CPTPP được kỳ vọng sẽ tạo ra những cơ hội phát triển có ý nghĩa cho nhiều ngành kinh tế, cho môi trường kinh doanh Việt Nam. Trong đó, thủy sản, trái cây, chăn nuôi chế biến thịt là những ngành kinh tế quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và của cả nước nói chung. Bước đầu hội nhập đã thúc đẩy cả ba ngành nông nghiệp quan trọng này đã có những chuyển động mạnh mẽ, với những nỗ lực tái cơ cấu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển bền vững.
Nếu như ngành chăn nuôi, chế biến thịt còn những hạn chế nhất định như quy mô nhỏ lẻ, chế biến thô sơ, giá thành cao thì bù lại ngành thủy sản và trái cây tại khu vực ĐBSCL đang đứng trước cơ hội rất lớn để mở rộng thị trường.
Trước hết là ngành thủy sản là ngành kinh tế thế mạnh truyền thống của Việt Nam. Trong quá trình hội nhập, thủy sản cũng là ngành năng động, đứng trong tốp các ngành xuất khẩu lớn và phát triển liên tục.
Năm 2018 xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản đạt kim ngạch 8,4 tỷ USD, tăng 4,9% so với năm 2017, 22% so với năm 2015. Hiện thủy sản Việt Nam đã có mặt ở khoảng 160 thị trường, trong đó 03 thị trường chính là Mỹ, EU và Nhật Bản (chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu).
Mặc dù vị thế xuất khẩu khiêm tốn hơn nhiều so với thủy sản, trái cây rau củ cũng là ngành nông nghiệp có thế mạnh, với các lợi thế về kinh nghiệm sản xuất, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và lao động. Năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu xấp xỉ 3,81 tỷ USD trái cây rau củ đến hơn 60 thị trường nước ngoài (trong đó khoảng 70% là xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc). Tiềm năng xuất khẩu của ngành này là đặc biệt lớn, khi mà mới có khoảng 10% sản lượng được xuất khẩu, và dư địa các thị trường xuất khẩu còn rất rộng và nhu cầu thế giới đối với các sản phẩm trái cây-rau củ ngày càng lớn.
Bên cạnh cơ hội thì 2 ngành này cũng cần phải nỗ lực vượt qua thách thức rào cản cả kỹ thuật và pháp lý ở các thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng phải tái cơ cấu sản xuất, thay đổi công nghệ gieo trồng, chế biến phù hợp đảm bảo yêu cầu khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng cao hơn nhưng giá cả ngày phải càng rẻ hơn.
Với xu hướng hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, trái cây Việt Nam có cơ hội để khẳng định mình trước thị trường thế giới. Thế nhưng, dù đạt năng suất cao, chủng loại đa dạng, hương vị phong phú nhưng do chất lượng chưa cao nên giá trị của trái cây nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Một điểm yếu khác của doanh nghiệp Việt Nam đối với mặt hàng này là khâu thu hoạch, bảo quản còn rất yếu. Trái cây nhập khẩu đến tay người dùng Việt Nam thì tươi như mới hái, còn trái cây ta xuất đi đến nơi thì không còn giữ được tươi ngon như mới thu hoạch, đây là hạn chế của trái cây khi xuất khẩu ra nước ngoài.
Giang Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập