Theo đó, khái niệm “giá bán lẻ xăng dầu” được mở rộng, bao gồm cả giá bán tại “điểm bán xăng dầu với thiết bị quy mô nhỏ”, thay vì chỉ dừng lại ở cửa hàng bán lẻ như trước. Điều này giúp quản lý chặt tất cả đầu mối lưu thông xăng dầu, kể cả quy mô nhỏ lẻ.
Một thay đổi đáng chú ý khác là việc rút gọn khái niệm “sở hữu cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh xăng dầu”. Nếu dự thảo 6 cho phép tính cả cơ sở vật chất thuộc công ty con mà doanh nghiệp nắm trên 50% vốn, dự thảo 7 chỉ công nhận phần sở hữu trực tiếp của chính thương nhân.
Dự thảo mới bổ sung quy định về quyền sử dụng cơ sở vật chất trong nhóm công ty. Công ty mẹ có thể dùng hạ tầng của công ty con để đáp ứng điều kiện kinh doanh, nhưng một khi đã được sử dụng thì công ty con không được tiếp tục khai thác hay cho thuê cho đơn vị khác. Quy định này nhằm ngăn chặn doanh nghiệp lớn sử dụng “một tài sản dùng nhiều lần” để lách điều kiện cấp phép.
Với hoạt động chuyển nhượng vốn, dự thảo 7 đã bổ sung một “cửa ải” quan trọng: Ngoài việc tuân thủ pháp luật và cam kết quốc tế, mọi thương vụ bán vốn cho nhà đầu tư nước ngoài đều phải được Bộ trưởng Bộ Công Thương cho phép. Đây là cơ chế kiểm soát nhằm ngăn chặn nguy cơ thâu tóm thị trường qua con đường góp vốn gián tiếp.
Đối với thương nhân đầu mối, hàng loạt điều kiện mới được đưa ra. Nếu ở dự thảo 6, yêu cầu tổng sức chứa chỉ dừng ở 15.000 m³, thì nay bắt buộc phải có ít nhất một kho gắn với cảng chuyên dụng, để chứng minh khả năng tiếp nhận trực tiếp nguồn hàng. Hệ thống phân phối cũng được quy định rõ ràng hơn: phải có ít nhất 40 thương nhân bán lẻ chỉ thuộc hệ thống của doanh nghiệp, thay vì chỉ ghi chung chung như trước.
Tác giả: Trang Nguyễn Thị Xuân
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập