Nguyên nhân khách quan
- Dung lượng thị trường trong nước còn nhỏ ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam chưa đủ điều kiện về thị trường cũng như các yếu tố khác để phát triển như các quốc gia trong khu vực, chưa chắc đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế đối với sản phẩm CNHT, khi đó thị trường xuất khẩu phải chịu sự cạnh tranh gay gắt gạt đặc biệt từ các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN.
- Việt Nam đã thực hiện hội nhập quốc tế thông qua nhiều Hiệp định thương mại tự do. Dư địa để có thể ngang bằng chính sách vào phát triển công nghiệp không còn nhiều người phải tuân thủ các cam kết quốc tế.
- Việt Nam chưa có doanh nghiệp đứng đầu chuỗi sản xuất tầm cỡ khu vực trong ngành sản xuất, lắp ô nhanh đóng vai trò dẫn dắt phát triển và lan tỏa trong ngành CNHT.
- Tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp toàn cầu thường sử dụng các doanh nghiệp đã từng cung ứng sản phẩm CNHT trong chuỗi sản xuất của họ hoặc các doanh nghiệp cùng quốc tịch, ít tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia value string of the multi-nation file.
- Yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp nhanh, cụ thể là các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu và doanh nghiệp nước ngoài vượt khả năng đáp ứng của doanh nghiệp CNHT đối với ngành ô tô trong nước; yêu cầu của khách hàng ngày càng nặng trĩu, không chỉ về giá cả, công nghệ, chất lượng, giao hàng mà còn cả yêu cầu về trách nhiệm xã hội liên quan đến an toàn, môi trường, điều kiện lao động…
- Missing master về các tài liệu cơ bản. Các nguyên liệu phục vụ sản xuất sản phẩm CNHT của ngành ô tô như chế tạo thép, nhựa, cao su và chất dẻo... chủ yếu vẫn phải dựa vào nhập khẩu. Sự phụ thuộc này đã làm giảm tính chủ động trong sản xuất và giảm sức cạnh tranh của sản phẩm.
Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân từ phía quản lý nhà nước
- Việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô vẫn chưa thực sự quan trọng về tính khả thi khi xác định các mục tiêu cụ thể.
Mặc dù đã sớm đề ra Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam (năm 2014) với những mục tiêu cụ thể trong đó có mục tiêu phản đối CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nhưng nội dung của bản chiến Lược, quy định này đều chưa mang lại hiệu quả có thể hiện trong hàng loạt các đề mục đưa ra phản đối ngành công nghiệp sản xuất ô tô nói chung, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô riêng đều không thực hiện được. Điều này cho thấy việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam chưa được tính toán những thay đổi cơ bản trong xu hướng phát triển của mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp trên thế giới mà cụ thể Có thể hơn là chưa tranh thủ đón đầu được xu thế các công ty ô tô lớn trên thế giới chuyển dịch đầu tư CNHT sang các nước đang phát triển có những lợi thế so sánh. Ngoài ra,
- Hệ thống chính sách phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô còn những mảnh ghép, thiếu quán nhất, thiếu tính ổn định.
Như đã phân tích, trong quá trình phát triển CNHT cho ngành ô tô đã có những chính sách vẫn còn tách rời nhau. Ví dụ như chủ trương hạn chế tiêu dùng sử dụng ô tô cá nhân ngoại hiện với quan điểm và định hướng phát triển ngành công nghiệp ô tô và điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Thực tế, nhiều quốc gia thành công trong việc phát triển ngành công nghiệp ô tô đã chỉ ra rằng có mối quan hệ liên kết rất chặt chẽ giữa ngành sản xuất ô tô với nhu cầu mua sắm của các gia đình. Chế độ sử dụng ô tô dẫn đến nhu cầu linh kiện, các phụ tùng dùng để lắp ô tô nhanh sẽ ít đi hoặc có tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Thị trường nhỏ, không hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp CNHT trong nước cạnh việc còn nhiều khó khăn thì việc sản xuất chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng nội địa, khả năng xuất khẩu thấp nên khó có thể đảm bảo quy mô sản xuất kinh tế. Không chỉ trang trí, chính sách còn thay đổi liên tục và quá nhanh trong thời gian ngắn.
Bên cạnh đó, trong một thời gian dài, Chính phủ chưa có cơ chế ràng buộc các nhà đầu tư trong việc thực hiện Tỷ lệ nội địa hóa mà chủ yếu dựa vào cam kết của họ. Đồng thời, việc ban hành chính sách bảo hộ trong thời gian này dựa trên kinh nghiệm của các nước đi trước, tuy nhiên tư duy này không còn phù hợp với đặc điểm của môi trường kinh doanh quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Với các quy định của WTO và xu thế phát triển chuỗi cung ứng hay mạng sản xuất toàn cầu thì nhất thiết phải phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tăng Tỷ lệ nội địa hóa. Phát triển CNHT để trở thành chuỗi mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các hãng lớn mới là hướng thích hợp.
- Công tác tổ chức, quản lý, điều hành công việc phát triển khai thực hiện quy định và chính sách phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô còn nhiều hạn chế.
Trong thực tế, việc tham gia tư vấn xây dựng chính sách phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô làm nhiều Bộ, ngành thực hiện. Giữa các Bộ chưa thực sự có sự phân phối chặt chẽ trong ban hành và thực thi chính sách.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thiết lập được hệ thống thống kê đầy đủ về ngành CNHT nói chung, CNHT cho ngành ô tô Việt Nam nói riêng. Hệ thống cơ sở dữ liệu về CNHT còn chưa hoàn thiện, chưa tạo thuận lợi trong thu thập, phân loại, tổng hợp, lưu trữ, kết nối và chia sẻ thông tin về các tình hình hoạt động của doanh nghiệp CNHT cho ngành ô tô. Vì vậy, thông tin về lĩnh vực hoạt động, khả năng của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam rất ít, không đủ để tạo nên cơ sở dữ liệu giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước tìm kiếm thông tin về nhu cầu đối với các chi tiết, linh kiện, về năng lực cung cấp các linh kiện, phụ tùng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng... để liên kết với nhau trong hoạt động.
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp CNHT cho ngành ô tô Việt Nam
- Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước còn thấp. Các doanh nghiệp CNHT ngành ô tô của Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, vốn là các công ty cơ khí, sản xuất chất dẻo, nhựa…, trình độ công nghệ còn kém, không có kinh nghiệm trong ngành ô tô; năng lực về vốn, trình độ công nghệ hạn chế nên dẫn đến tình trạng đầu tư thường manh mún, quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện đơn giản, có giá trị thấp. Ngay với các lĩnh vực điện – điện tử tuy đã có những tiến bộ song vẫn còn một khoảng cách khá xa về sự đa dạng về chủng loại mẫu mã, chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng đúng thời hạn giao hàng một cách nhẹ nhàng. khe...so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia...
- Nhiều doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chưa xây dựng được niềm tin thực sự của các doanh nghiệp FDI về khả năng cung ứng các linh phụ kiện phục vụ lắp ráp ô tô. Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong nước không có khả năng hoặc rất khó trả lời một cách đầy đủ các yêu cầu khai thác khe về chất lượng, thông số kỹ thuật, nguồn nguyên liệu và thời gian hạn giao hàng, tốt nhất là với những lô hàng lớn từ phía các doanh nghiệp lắp ô tô nhanh có nguồn vốn nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp CNHT Việt Nam mặc dù có khả năng sản xuất được một số chi tiết, linh kiện nhưng không hiểu có được văn hóa kinh doanh, thiếu khả năng thuyết phục các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực lắp ráp ô tô sử dụng sản phẩm của mình.
- Nhiều doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam sử dụng công nghệ lạc hậu nên định giá thành sản xuất cao, khả năng cạnh tranh thấp nên các doanh nghiệp lắp ráp ô tô thường tìm nguồn cung linh kiện phụ tùng từ nước ngoài, nhất là những doanh nghiệp 100% Vốn nước ngoài hoặc những doanh nghiệp FDI hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng sử dụng linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI sản xuất khác.
- Khả năng nghiên cứu thiết kế phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam còn rất hạn chế. Đại bộ phận sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất theo mẫu hoặc mô phỏng lại mẫu mã của nước ngoài. Thực trạng này có thể được lý giải là do hầu hết các doanh nghiệp CNHT Việt Nam không có bộ phận nghiên cứu phát triển, đội ngũ kỹ sư nghiên cứu thiết kế phát triển sản phẩm mới rất thiếu và yếu, thiếu trang thiết bị thí nghiệm trải nghiệm hiện đại và chi phí đầu tư cho hoạt động này thấp hơn.
- Các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô thường xuyên trong tình trạng thiếu nguồn nhân lực trả lời yêu cầu. Sản xuất ô tô nói chung và sản xuất các linh phụ kiện ô tô yêu cầu lực lượng lao động có kỹ thuật, có tay nghề nhưng trong thực tế nguồn nhân lực phục vụ CNHT chưa đáp ứng được cả về lượng và chất.
- Sự liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT và gắn ô tô nhanh, giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau còn rất hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất linh kiện độc lập một mặt chưa kết nối chặt chẽ được với các doanh nghiệp lắp ráp nhanh, mặt khác lại thiếu khả năng tiếp cận và tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp nước ngoài. Ở phía sau, các doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước đa số mới thành lập, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động phát triển các cơ sở CNHT, thu hút các bộ phận bảo vệ tinh, các nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng.
Đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp lắp ráp ô tô Việt Nam đang đi vào con đường mà các quốc gia đi trước đã từ bỏ, đó là có xu hướng tự cung cấp hoặc độc quyền, khép kín trong sản xuất ô tô. Các chuỗi cung ứng nội bộ từng công ty đang được hình thành nhưng chủ yếu dưới dạng công ty mẹ con, số lượng thành viên trong chuỗi rất ít, chưa phát triển thành các sản phẩm mạng xuất hiện dưới dạng các công ty độc lập có quan hệ hợp tác tác kinh doanh dựa trên hợp đồng dài hạn.
Nhìn chung, công nghiệp ô tô Việt Nam nói chung và CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nói riêng phát triển phát triển phân tán rời rời, mối quan hệ lỏng lẻo giữa các nhà lắp ghép và các nhà cung ứng.
- Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp liên quan đến CNHT đối với ngành công nghiệp ô tô còn hạn chế.
Tiếng nói của các Hiệp hội không có nhiều tác động quan trọng không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất nhanh, gắn ô tô mà cả đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Đây cũng là một lý do khiến các công ty lắp ghép và doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hoạt động rời rạc, thiếu gắn kết trong thời gian vừa qua.
Tác giả: Đức ToànNhững tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập