2 tháng năm 2024: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2023
hai vo truong
2025-07-12T09:03:12+07:00
2025-07-12T09:03:12+07:00
https://sct.dongnai.gov.vn/vi/news/Quan-ly-cong-nghiep/2-thang-nam-2024-chi-so-san-xuat-cong-nghiep-tang-5-7-so-voi-cung-ky-nam-2023-6729.html
/themes/dongnai/images/no_image.gif
Sở Công Thương
https://sct.dongnai.gov.vn/uploads/sct/logo_2.png
Thứ hai - 11/03/2024 16:00
Hai tháng đầu năm 2024, sản xuất công nghiệp đã cho thấy những tín hiệu tích cực khi chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%) mặc dù số ngày làm việc ít hơn do Tết Nguyên đán diễn ra trọn trong tháng 02/2024.
Hai tháng đầu năm 2024, sản xuất công nghiệp đã cho
thấy những tín hiệu tích cực khi chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,7% so
với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%) mặc dù số ngày làm việc ít
hơn do Tết Nguyên đán diễn ra trọn trong tháng 02/2024.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai
trò dẫn dắt phát triển công nghiệp, tăng 5,9%
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng
02/2024 ước tính giảm 18% so với tháng trước và giảm 6,8% so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước; ngành
chế biến, chế tạo giảm 6,5%; sản xuất và phân phối điện giảm 3,6%; cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,1%. Tuy nhiên, tính
chung hai tháng đầu năm 2024, sản xuất công nghiệp đã cho thấy những tín hiệu
tích cực khi chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,7% so với cùng kỳ năm
trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%) mặc dù số ngày làm việc ít hơn do Tết Nguyên
đán diễn ra trọn trong tháng 02/2024.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp
tục giữ vai trò dẫn dắt phát triển công nghiệp khi tăng 5,9% so với cùng kỳ năm
trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 3,1%), đóng góp 5,2 điểm phần trăm trong mức tăng
chung; ngành khai khoáng giảm 3,5% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,4%), làm giảm 0,6
điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng
12,2% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,6%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,5% (cùng kỳ năm
2023 tăng 2,9%), đóng góp 0,04 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp trong hai tháng đầu năm
2024 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó
có một số ngành tăng cao ở mức hai con số như: Sản xuất hoá chất và sản phẩm
hoá chất tăng 27,7%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 25,3%;
sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,3%; sản xuất giường, tủ, bàn,
ghế tăng 23,4%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 23,2%; sản xuất
thiết bị điện tăng 22,1%; dệt tăng 17,6%.... Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của
một số ngành giảm so với cùng kỳ năm trước như: Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt
máy móc thiết bị giảm 21,8%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 9,4%;
sản xuất đồ uống giảm 6,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm
quang học giảm 2,6%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 0,8%.
Trong hai tháng đầu năm 2024, sản xuất công nghiệp
tăng trên diện rộng ở 56/63 địa phương. Đặc biệt, một số địa phương có chỉ số
IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao. Trong đó, một số địa
phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao so
với cùng kỳ năm trước như: Bắc Giang tăng 29%; Phú Thọ tăng 27,6%; Hà Nam tăng
22,2%; Thanh Hóa và Quảng Ngãi cùng tăng 22,1%; Bình Phước tăng 20%; Kiên Giang
tăng 19,7%; Tây Ninh tăng 16,9%. Đồng thời, một số địa phương có chỉ số sản
xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao như: Khánh Hòa tăng tới
318,8%; Trà Vinh tăng tới 102,3%; Thanh Hóa tăng 67,5%; Bắc Giang tăng 17,6%;
Phú Thọ tăng 15,5%...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong hai tháng
đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước như: Xăng dầu tăng 44,7%; phân hỗn
hợp NPK tăng 29%; thép cán tăng 24,1%; sơn hóa học tăng 22,4%; đường kính tăng
21,1%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 20,8%; thép thanh, thép góc tăng 18,6%; sữa
bột tăng 15,3%; điện sản xuất tăng 12,1%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm
giảm so với cùng kỳ năm trước: Linh kiện điện thoại giảm 20,8%; khí đốt thiên
nhiên dạng khí giảm 16,1%; ti vi giảm13,7%; bia giảm 11,5%; ô tô giảm 9,8%;
sắt, thép thô giảm 8,6%; điện thoại di động giảm 6,7%.
Trong hai tháng đầu năm 2024, tốc độ tăng về số
lượng doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo
cao hơn so với tốc độ doanh nghiệp giải thể (thành lập mới tăng 17,4%; giải thể
tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2023); cùng với lượng vốn FDI thực hiện trong
lĩnh vực chế biến, chế tạo trong hai tháng đầu năm đạt 2,17 tỷ USD, chiếm 77,5%
tổng vốn FDI thực hiện cả nước (2,8 tỷ USD)... đã cho thấy những tín hiệu tích
cực về sự phục hồi của sản xuất công nghiệp trong những tháng đầu năm 2024.
Đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và đời
sống sinh hoạt
Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống
điện quốc gia tháng 02/2024 ước đạt 19,75 tỷ kWh (bao gồm sản lượng điện mặt
trời mái nhà bán vào hệ thống), giảm 2,45% so với cùng kỳ năm 2023 (do nhu cầu
phụ tải giảm thấp trong thời gian diễn ra kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm
2024 từ ngày 08-14/02/2024). Lũy kế 02 tháng đầu năm 2024, tổng điện năng sản
xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia ước đạt 43,71 tỷ kWh (bao gồm sản
lượng điện mặt trời mái nhà bán vào hệ thống), ước đạt 14,27% so với kế hoạch
năm 2024 được Bộ Công Thương phê duyệt tại Quyết định số 3110/QĐ-BCT ngày 30
tháng 11 năm 2023 phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện
quốc gia năm 2024 (kế hoạch đạt 306,259 tỷ kWh).
Nhìn chung, tình hình sản xuất và cung ứng điện toàn
hệ thống trong 02 tháng đầu năm 2024 đã được thực hiện tốt, đảm bảo đáp ứng đủ
nhu cầu điện cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân cả nước, đặc biệt
là trong các dịp nghỉ Lễ, Tết dài ngày.
Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm
Mặc dù các kết quả 2 tháng đầu năm 2024 rất khả quan
nhưng vẫn cần tập trung theo dõi sát tình hình để kịp thời ứng phó vì còn những
khó khăn, thách thức tiềm ẩn như lãi suất còn cao, lãi suất cho vay chưa giảm
tương ứng với lãi suất huy động; các thị trường xuất khẩu phục hồi nhưng chưa
bền vững; năm 2024 diễn ra nhiều cuộc bầu cử nên có thể dẫn đến nhiều thay đổi
chính sách, đặc biệt các chính sách dân túy, mang tính bảo hộ, hạn chế thương
mại…
Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2024, trong thời
gian tới ngành Công Thương sẽ tập trung cao độ cùng EVN, UBQLV và các địa
phương triển khai dự án đường dây 500KV mạch 3 đảm bảo tiến độ, chất lượng theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, rà soát
các tồn đọng để sớm đưa vào vận hành các công trình dự án trọng điểm trong lĩnh
vực điện, dầu khí, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoáng sản...
Theo dõi sát tình hình phụ tải điện và diễn biến
thời tiết, thủy văn để kịp thời ứng phó theo các kịch bản đã được Bộ chủ động
xây dựng cho từng Quý, từng tháng 2024; đảm bảo cung ứng điện trong mọi tình
huống.
Nguồn: Bộ Công Thương