Mới đây, Hoa Kỳ cũng đang xem xét áp thuế carbon với hàng nhập khẩu. Tất cả các rào cản trên đều hướng đến mục tiêu cắt giảm khí thải và từng bước tiến đến net zero vào năm 2050.
Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc đều là thị trường xuất khẩu lớn của Đồng Nai. Do đó, doanh nghiệp muốn cạnh tranh được ở những thị trường trên buộc phải đầu tư nhà máy, công nghệ hiện đại, ít phát thải. Đồng thời, doanh nghiệp phải lựa chọn nhà cung ứng nguyên liệu xanh cho chuỗi sản phẩm của mình. Đây là khó khăn, thách thức lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước, vì cần nguồn vốn lớn để đầu tư nhà xưởng, máy móc, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng vùng nguyên liệu an toàn, có nguồn gốc rõ ràng.
Tuy nhiên, về lâu dài, doanh nghiệp Việt muốn phát triển bền vững buộc phải đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ những nước nhập khẩu. Ngay cả thị trường Trung Quốc được cho là dễ tính cũng đang siết chặt nhập khẩu tiểu ngạch và chuyển qua nhập khẩu chính ngạch với nhiều tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa. Vì thế, mỗi ngành hàng đòi hỏi sản xuất theo chuỗi và kiểm soát được nguồn gốc, xuất xứ.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia khá nhiều các FTA hàng hóa Việt Nam có nhiều thuận lợi so với các nước không có các FTA, hàng hóa của Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan. Tuy nhiên, đây cũng là công cụ để vô hiệu hóa các ưu đãi thuế quan và có thể bị áp dụng một số biện pháp tạm dừng ưu đãi, thậm chí không chỉ với một công ty xuất khẩu, với một mặt hãng xuất khẩu mà đối với toàn bộ ngành hàng của toàn bộ các công ty có sản xuất đến mã HS liên quan đến ngành hàng đó khi xuất khẩu đến nước đối tác. Đây là những quy định khá khắt khe trong một số các FTA thế hệ mới. Doanh nghiệp cũng cần lưu ý đến vấn đề này.
Khi các nước nhập khẩu phát hiện liên quan đến gian lận và doanh nghiệp không chứng minh được, cơ quan tổ chức của Việt Nam không chứng minh được thì họ sẽ có những biện pháp tạm dừng ưu đãi đối với hàng loạt các mặt hàng có chung mã HS liên quan hoặc cùng với hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu chung mặt hàng đó sang thị trường đối tác.
Mặt khác có những trường hợp, một số doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng đi Nhật Bản hay Australia, New Zealand vẫn đang quen sử dụng mẫu CO AANZ trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do ASEAN, Australia và New Zealand; hoặc sử dụng mẫu CO AJ hay mẫu CO VJ trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP). Nhưng khi được thông báo có các Hiệp định mới ra đời như CPTPP, RCEP, các doanh nghiệp ngay lập tức chuyển hướng và áp dụng các Hiệp định mới.
Tuy nhiên, thuế quan trong Hiệp định mới chưa chắc đã ưu đãi bằng thuế quan trong Hiệp định cũ, bởi thuế quan trong Hiệp định mới đang nằm trên đỉnh dốc trong lộ trình giảm thuế. Còn tại các Hiệp định cũ thì đã ở phía đáy dốc. Mặt hàng nào, thị trường nào, thuế quan tại thời điểm xuất khẩu để có sự áp dụng cho phù hợp.
Đồng Nai hiện đã xuất khẩu hàng hóa vào hơn 170 quốc gia, vùng lãnh thổ nhưng vẫn lệ thuộc vào một số thị trường lớn là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu. Do đó, khi một trong những thị trường trên có biến động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất khẩu của tỉnh. Theo tham tán thương mại Việt Nam tại các nước, doanh nghiệp nên chủ động xúc tiến thương mại, tăng thị phần ở nhiều thị trường khác nhau để tránh phụ thuộc vào một vài thị trường lớn. Như vậy, doanh nghiệp sẽ hạn chế được rủi ro khi thị trường lớn gặp trở ngại, giảm nhập khẩu hàng hóa.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập