Ngày 7-7, Thực hiện tham dự trực tuyến Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai kế hoạch 6 tháng cuối năm 2023 của ngành Công Thương tại cục QLTT Đồng Nai. Thành phần tham dự có Phó chủ tịch Nguyễn Thị Hoàng và Giám đốc Sở Trương Thị Mỹ Dung cùng lãnh đạo các phòng, đơn vị trực thuộc Sở Công Thương và Lãnh đạo cục QLTT.
Một số hình ảnh tại Buổi họp:
Tại buổi Họp, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Phan Thị Thắng báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023 ngành Công Thương. Nội dung cụ thể như sau:
BÁO CÁO
SƠ KẾT CÔNG TÁC 6 THÁNG ĐẦU NĂM
VÀ TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ 6 THÁNG CUỐI NĂM 2023
I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
Trong 6 tháng đầu năm 2023, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, áp lực lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng còn ở mức cao, nhu cầu tiêu dùng và các hoạt động kinh tế tiếp tục suy giảm, kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng thấp trong năm nay (theo dự báo của Liên hợp quốc vào tháng 6/2023, tăng trưởng toàn cầu được dự báo sẽ chậm lại, giảm từ 3,1% năm 2022 xuống 2,3% năm 2023 và tăng lên mức 2,5% vào năm 2024) và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro (xung đột Nga - Ucraina kéo dài, sự sụp đổ của một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sỹ, tác động ngày càng tiêu cực của biến đổi khí hậu, …), hệ lụy của dịch Covid -19 vẫn còn hiện hữu, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt hơn, kéo theo sự tham gia của nhiều quốc gia, khu vực; chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tác động tới doanh nghiệp và các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu; nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại, rơi vào suy thoái kỹ thuật, kinh tế Trung Quốc phục hồi chưa bền vững; rủi ro hệ thống ngân hàng, nợ công, nợ của doanh nghiệp,… gia tăng; phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường vừa là cơ hội, nhưng cũng là thách thức khi nhiều quốc gia phát triển đưa ra các hàng rào nhập khẩu mới với lý do môi trường…
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, năm 2023 là năm khó khăn đối với kinh tế Việt Nam trước tác động từ cả bên trong và bên ngoài. Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, do đó chịu tác động trực tiếp từ suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, biến động thị trường và điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, nhất là chính sách lãi suất - tỷ giá. Các động lực tăng trưởng chính của Việt Nam như đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước gặp nhiều thách thức. Cán cân thương mại được dự báo tiếp tục cải thiện, tuy nhiên xuất khẩu sẽ đối mặt với các thách thức chung của các thị trường đối tác lớn.
Ở trong nước, nền kinh tế đã có bước phục hồi nhờ các giải pháp đồng bộ như ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách các thủ tục hành chính, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số… Trong 6 tháng đầu năm 2023, nền kinh tế đã từng bước phục hồi với tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm tăng 3,72% so với cùng kỳ, lạm phát được kiểm soát (chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng tăng 3,29% so với cùng kỳ). Tuy nhiên, các khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, thiếu đơn hàng, giá xăng dầu, giá nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, chi phí sản xuất, sinh hoạt, vận tải còn ở mức cao, áp lực cạnh tranh và sự gia tăng các rào cản kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu…, tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, việc làm và đời sống của người lao động.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động nhận định tình hình, quyết liệt chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra kịp thời, đúng hướng, hiệu quả; linh hoạt trong điều hành để hài hòa các mục tiêu trước mắt và lâu dài; phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo, quyết đoán, thực hiện quyết liệt các giải pháp phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Trên cơ sở quan điểm, định hướng chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thực hiện Quy chế làm việc, Quy chế phối hợp công tác, Ban cán sự đảng cùng tập thể Lãnh đạo Bộ Công Thương, Đảng ủy Bộ đã quán triệt, cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch hành động, đặc biệt là bám sát diễn biến tình hình biến động của kinh tế trong nước và thế giới để linh hoạt trong điều hành, tập trung rà soát, tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đề ra; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Tình hình phát triển ngành Công Thương trong 6 tháng đầu năm 2023 như sau:
II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023
1. Về sản xuất công nghiệp
- Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) tiếp tục duy trì đà tăng trưởng liên tục từ đầu năm, tháng sau cao hơn tháng trước (tính riêng trong tháng 6, IIP ước tính tăng 2,8% so với cùng kỳ). Lũy kế 6 tháng, sản xuất công nghiệp đã phục hồi 98,8% so với cùng kỳ năm 2022 (là thời điểm kinh tế bùng nổ sau quyết định kịp thời của Chính phủ mở cửa nền kinh tế vào 3/2022).
- Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 ước tính tăng 0,44% so với cùng kỳ năm trước (quý I giảm 0,75%; quý II tăng 1,56%), là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023[1] và đóng góp 0,15 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, giá trị tăng thêm 6 tháng đầu năm 2023 có sự cải thiện, đạt mức tăng 0,37%[2] (quý I giảm 0,49%; quý II tăng 1,18%) và đóng góp 0,1 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
- Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 13,2%; khai thác quặng kim loại tăng 11,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 7,2%; sản xuất thuốc lá tăng 6,7%; sản xuất đồ uống tăng 5,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,6%...
- Trong 6 tháng đầu năm, có 48/63 địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao. Một số địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Bắc Giang tăng 16,2%; Phú Thọ tăng 15,3%; Kiên Giang tăng 13,6%; Nam Định tăng 13,4%; Hải Phòng và Phú Yên cùng tăng 13%; Hà Nam tăng 11,7%. Một số địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao như: Hậu Giang tăng 264,4%; Thái Bình tăng 70,4%; Trà Vinh tăng 29,4%; Nam Định tăng 11,9%.
Một số trung tâm công nghiệp lớn của cả nước đã khôi phục đà tăng trưởng công nghiệp như: Thái Nguyên tăng 4,1%; Quảng Ninh tăng 7,4%; Bắc Giang tăng 15,7%, Hải Phòng tăng 12,3%, TP. Hồ Chí Minh tăng 1,9%, Bình Dương tăng 2,6%; Đồng Nai tăng 3%.
Tình hình sản xuất của một số ngành chủ yếu trong 6 tháng đầu năm
(i) Đối với ngành điện
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về cung ứng điện mùa khô năm 2023, Bộ Công Thương đã và đang thực hiện nhiều nhóm giải pháp cụ thể về tiết kiệm điện; đảm bảo cung ứng than, khí cho phát điện; tích cực bổ sung các nguồn điện mới cho hệ thống; tập trung khắc phục các sự cố nguồn điện; đảm bảo khả năng truyền tải,…
Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia tháng 6 năm 2023 ước đạt 25,323 tỷ kWh, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia ước đạt 136,090 tỷ kWh (bao gồm sản lượng điện mặt trời mái nhà bán vào hệ thống), tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 47,8% so với kế hoạch năm 2023 (284,5 tỷ kWh).
Tình hình cung cấp điện ổn định trong 4 tháng đầu năm, tuy nhiên từ đầu tháng 5 đến nay, do tình trạng nắng nóng xảy ra tại nhiều địa phương trên cả nước đã làm tăng nhu cầu tiêu thu điện sinh hoạt, trong khi đó lưu lượng nước về các hồ thủy điện rất thấp, đặc biệt là tại các hồ thủy điện miền Bắc, gây ảnh hưởng lớn đến cung ứng điện mùa khô năm 2023 (lưu lượng nước về các hồ thủy điện từ đầu tháng 4 đến giữa tháng 6 có xu hướng giảm thấp và thấp hơn nhiều so với trung bình nhiều năm, trung bình chỉ đạt 60% đối với các hồ khu vực miền Bắc và 90% đối với các hồ miền Trung và miền Nam). Do vậy, việc cung cấp điện trong giai đoạn cuối tháng 5, đầu tháng 6 gặp khó khăn, dẫn đến phải tiết giảm điện tại một số khu vực phía Bắc do không đáp ứng được nhu cầu phụ tải. Đến cuối tháng 6, nhờ nhiều giải pháp quyết liệt trong sản xuất, điều hòa, cung cấp điện và lượng nước về các hồ thủy điện tăng hơn trước nên tình hình cung ứng điện đã được cải thiện.
(ii) Đối với ngành dầu khí
* Tình hình sản xuất: Trong 6 tháng đầu năm 2023, ngành dầu khí (trong đó PVN là đơn vị nòng cốt) đã nỗ lực bám sát các nhiệm vụ mục tiêu và kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra, tiếp tục duy trì ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể:
- Tổng sản lượng khai thác dầu khí quy dầu ước thực hiện 6 tháng đạt 9,48 triệu tấn quy đổi, vượt 20% so với kế hoạch 6 tháng và bằng 62% với kế hoạch năm 2023. Trong đó:
Sản lượng khai thác dầu 6 tháng đầu năm 2023 ước thực hiện đạt 5,31 triệu tấn, vượt 14% so với kế hoạch 6 tháng và bằng 57% kế hoạch cả năm 2023. Trong đó, sản lượng khai thác dầu thô trong nước 6 tháng ước thực hiện đạt 4,41 triệu tấn, vượt 0,65 triệu tấn (14%) so với kế hoạch 6 tháng và bằng 59% kế hoạch cả năm 2023.
Sản lượng khai thác khí, ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023 đạt 4,17 tỷ m3 vượt 27% so với kế hoạch 6 tháng và bằng 70% kế hoạch cả năm 2023.
* Tình hình tiêu thụ: Sản lượng tiêu thụ dầu 6 tháng đầu năm 2023 ước thực hiện đạt 5,31 triệu tấn, vượt 14% so với kế hoạch 6 tháng và bằng 57% kế hoạch cả năm 2023.
Sản lượng tiêu thụ khí, ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023 đạt 4,17 tỷ m3 vượt 27% so với kế hoạch 6 tháng và bằng 70% kế hoạch cả năm 2023.
* Về cung ứng xăng dầu: Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ mục tiêu và kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra, duy trì hoạt động sản xuất, phấn đấu duy trì nguồn cung xăng dầu ổn định cho thị trường trong nước.
(iii) Đối với ngành Than
* Tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị ngành than năm 2023 (gồm 2 đơn vị sản xuất chính là TKV và Tổng công ty Đông Bắc).
- Trong 6 tháng đầu năm 2023, than thương phẩm sản xuất khoảng 30,23 triệu tấn, đạt 52,23% kế hoạch năm, bằng 109,32% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: than sản xuất trong nước khoảng 23,82 triệu tấn, đạt 52,32% kế hoạch năm, bằng 97,78% so với cùng kỳ năm 2022; than nhập khẩu khoảng 6,41 triệu tấn, đạt 48,54% kế hoạch năm, bằng 194,73% so với cùng kỳ năm 2022.
- Tổng than tiêu thụ khoảng 30,97 triệu tấn, đạt 54,22% kế hoạch năm, bằng 106,07% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: tiêu thụ trong nước khoảng 30,76 triệu tấn, đạt 55,84% kế hoạch năm, bằng 107,9% so với cùng kỳ năm 2022[3]; xuất khẩu khoảng 0,21 triệu tấn, đạt 10,34% kế hoạch năm, bằng 30,38% so với cùng kỳ năm 2022.
Hầu hết các chỉ tiêu về sản xuất, tiêu thụ than đều đạt và vượt so với cùng kỳ năm 2022, nhất là chỉ tiêu cấp than cho sản xuất điện đã đạt 54,70% kế hoạch năm 2023 và bằng 118,16% so với cùng kỳ năm 2023. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu như than nguyên khai/thương phẩm sản xuất trong nước giảm so với cùng kỳ do: (i) Việc gia tăng sản lượng khai thác trong nước là hữu hạn bởi quy định tại các Giấy phép khai thác than; (ii) một số Giấy phép khai thác than đã hết hạn nhưng chưa được gia hạn, một số Giấy phép khai thác than đề nghị cấp mới chưa được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp[4].
2. Về xuất nhập khẩu hàng hóa
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu cơ bản giữ được đà tăng và sau 6 tháng
ước đạt 164,45 tỷ USD, đã phục hồi 87,9% so với cùng kỳ năm 2022.
- Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước (giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước) chậm hơn so với khu vực có vốn FDI (giảm 12,2% so với cùng kỳ năm trước), cho thấy sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong nước trong việc phục hồi sản xuất, kinh doanh trong điều kiện còn nhiều khó khăn.
- Xuất khẩu rau quả và gạo là điểm sáng trong xuất khẩu của cả nước trong 6 tháng đầu năm khi đạt mức tăng hai con số. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng 34,7% so với cùng kỳ năm ngoái (sản lượng gạo xuất khẩu tăng 22,2% so với cùng kỳ năm ngoái); xuất khẩu rau quả tăng 64,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Trong 6 tháng đầu năm, có 27 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (giảm 02 mặt hàng so với cùng kỳ), chiếm 90,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 57,8%).
- Về thị trường xuất khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2023: Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 44,2 tỷ USD, chiếm 26,9% kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 25,6 tỷ USD, chiếm 15,6%; thị trường EU đạt 21,6 tỷ USD, chiếm 13,1%; thị trường ASEAN đạt 16,3 tỷ USD, chiếm 9,9%; Nhật Bản đạt 11 tỷ USD, chiếm 6,7%; Hàn Quốc đạt 10,9 tỷ USD, chiếm 6,6%.
Nổi bật, một số thị trường xuất khẩu phục hồi khả quan về gần mức cùng kỳ năm trước như Ấn Độ (95,7%), Nhật Bản (96,7%), Trung Quốc (97,8%). Một số thị trường mới ghi nhận tăng trưởng cao như Arhentina (tăng 35% so với cùng kỳ), Arập Xê-ut (tăng 67%), Angeri (tăng 91%).
Về nhập khẩu hàng hóa cơ bản được kiểm soát tốt khi nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu chiếm 88,1%; nhập khẩu của nhóm hàng cần kiểm soát chỉ chiếm 6,2% và nhóm hàng hóa khác chiếm 5,7%.
Kim ngạch nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm giảm 18,2% so với cùng kỳ do những khó khăn về đơn hàng xuất khẩu, nhu cầu thế giới giảm nên nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất để xuất khẩu giảm. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm 13% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 9,4 tỷ USD. Trong đó, những mặt hàng giảm mạnh gồm: linh kiện phụ tùng ô tô dưới 9 chỗ (giảm 27,1%), xe máy và linh kiện (giảm 13,8%), hàng điện gia dụng và linh kiện (giảm 22,2%), đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 27,8%... Ngược lại, tăng cao nhất là kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, tăng 23,7%.
Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng chủ lực đều giảm như: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 38,27 tỷ USD, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng giảm 12,3%, đạt 19,7 tỷ USD; vải các loại giảm 19,2%, đạt 6,4 tỷ USD; thép các loại giảm 32,3%; xăng dầu các loại giảm 18,4%; cao su các loại giảm 41,2%; bông các loại giảm 21,5%; hóa chất giảm 24,2%; phân bón giảm 28,1%...... Đặc biệt là kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện các loại tiếp tục giảm mạnh khi chỉ đạt 3,45 tỷ USD, giảm 66,5%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2023: Do những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ hầu hết các thị trường đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 50,09 tỷ USD, giảm 18,7% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc, ước đạt 24,2 tỷ USD, giảm 25,6%; thị trường ASEAN ước đạt 20,3 tỷ USD, giảm 16,9%; Nhật Bản đạt 9,8 tỷ USD, giảm 18,7%; EU đạt 7,06 tỷ USD, giảm 10,7%; Hoa Kỳ đạt 7 tỷ USD, giảm 7,3%.
Cán cân thương mại tiếp tục duy trì xuất siêu ở mức cao, đạt 12,25 tỷ USD (gấp gần 11 lần so với mức thặng dư 1,16 tỷ USD của cùng kỳ năm trước), góp phần bảo đảm cán cân thanh toán, hỗ trợ công tác điều hành tỷ giá. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,81 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 22,06 tỷ USD.
3. Về thị trường trong nước
Mặc dù nền kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn và có dấu hiệu suy giảm, doanh số bán lẻ tại một số nền kinh tế lớn trên thế giới như các nước châu Âu đều tăng chậm, tuy nhiên thị trường trong nước vẫn giữ được mức tăng trưởng tích cực với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn so với mức tăng 12,2% của cùng kỳ năm 2022 tăng 12,2%). Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 18,7% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 65,9% và doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 9,3% (nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 13,5%; may mặc tăng 9,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 9,3%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 4%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) tăng 2,5%).
Quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 3.016,7 nghìn tỷ đồng, cao hơn so với 6 tháng đầu năm 2022 (đạt 2.719,8 nghìn tỷ đồng) cho thấy sức cầu của thị trường trong nước có xu hướng tăng.
Trong 6 tháng đầu năm, doanh thu bán lẻ hàng hóa của một số địa phương đạt mức tăng hai con số so với cùng kỳ năm trước như: Bình Dương tăng 15,6%; Quảng Ninh tăng 14,5%; Hải Phòng tăng 14%; Đồng Nai tăng 12,3%.
Nguồn cung hàng hóa tại thị trường trong nước, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Như vậy, thị trường trong nước tiếp tục là điểm sáng hỗ trợ quá trình phục hồi tổng cầu và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội của nước ta trong 6 tháng đầu năm.
Thương mại điện tử tiếp tục trở thành phương thức phân phối quan trọng, Thương mại điện tử tiếp tục là phương thức phân phối quan trọng, góp phần phát triển chuỗi cung ứng và lưu thông trong và ngoài nước, hỗ trợ tiêu thụ hiệu quả một lượng lớn nông sản, thực phẩm cho người nông dân và doanh nghiệp, đặc biệt khi vào vụ thu hoạch. Nhiều doanh nghiệp tăng trưởng đột phá nhờ ứng dụng thương mại điện tử, doanh thu bán lẻ hàng hóa xuyên biên giới tăng cao, trong đó có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong 6 tháng đầu năm 2023, doanh thu thương mại điện tử B2C ước đạt 10,3 tỷ USD, tăng khoảng 25% so với cùng kỳ, chiếm 8% doanh thu hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước.
4. Về quản lý nhà nước ngành Công Thương
Công tác quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực phụ trách của ngành Công Thương được tổ chức triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, góp phần vào thành tích chung của toàn ngành.
4.1. Công tác hoàn thiện thể chế pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật được quan tâm chỉ đạo.
- Về xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật theo Chương trình công tác của Chính phủ năm 2023: Theo Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2023, Bộ Công Thương được giao chủ trì xây dựng 11 văn bản gồm: 01 đề nghị xây dựng Luật và 10 Nghị định. Tính đến ngày 31/5/2023, Bộ Công Thương đã trình đề nghị xây dựng 01 luật (Luật Hóa chất) và 01 Nghị định (Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Dầu khí thay thế Nghị định số 95/2015/NĐ-CP ngày 06/7/1993 của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Dầu khí, tại Tờ trình số 2477/TTr-BCT ngày 26/4/2023).
- Đối với Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công Thương năm 2023: Theo Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong năm 2023 của Bộ Công Thương (Quyết định số 3004/QĐ-BCT ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Công Thương), Bộ Công Thương phải trình/ban hành 29 văn bản gồm 10 Nghị định và 19 Thông tư. Riêng trong Quý I, II/2023, Bộ Công Thương phải trình/ban hành 04 văn bản trong Chương trình (02 Nghị định, 02 Thông tư). Tính đến ngày 21 tháng 6 năm 2022, Bộ Công Thương đã trình/ban hành 04 văn bản trong Chương trình (01 Nghị định, 03 Thông tư) và ban hành thêm 09 Thông tư ngoài Chương trình.
- Về công tác kiểm tra VBQPPL, các đơn vị đã bám sát Kế hoạch kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL năm 2023 của Bộ Công Thương tại theo Quyết định số 12/QĐ-BCT ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Trong 6 tháng đầu năm, Bộ Công Thương đã thực hiện tự kiểm tra đối với 10 văn bản do các Bộ, ngành và 60 văn bản do các địa phương ban hành liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ Công Thương.
- Về công tác hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tuân thủ quy định của Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL và Thông tư số 08/2021/TT-BCT ngày 30 tháng 9 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về việc xây dựng và ban hành VBQPPL của Bộ Công Thương. Trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ Công Thương đã thực hiện hợp nhất 14 văn bản, bao gồm: 04 Nghị định và 10 Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Việc triển khai hợp nhất các VBQPPL.
4.2. Công tác cải cách thủ tục hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử:
Về cải cách thủ tục hành chính: Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3027/QĐ-BCT ngày 30 tháng 12 năm 2022 về việc ban hành Kế hoạch rà soát đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính (TTHC) thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Công Thương năm 2023. Tính đến thời điểm báo cáo các đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ theo Kế hoạch.
Hiện nay, Bộ Công Thương đang xây dựng kế hoạch cắt giảm, đơn giản hoá quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương năm 2023.
Tính đến thời điểm báo cáo, Bộ Công Thương đang có 451 TTHC (303 TTHC thực hiện ở cấp Trung ương, 131 TTHC thực hiện ở cấp tỉnh; 15 TTHC thực hiện ở cấp Huyện; 02 TTHC cấp xã).
Về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC: Từ cuối năm 2016, Bộ Công Thương là Bộ đầu tiên khai trương và đưa vào sử dụng Cổng dịch vụ công trực tuyến với mô hình như Cổng Dịch vụ công quốc gia hiện nay. Ngay trong tháng 11 năm 2019 (trước khi khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia), Bộ đã tiến hành nâng cấp Cổng Dịch vụ công của Bộ để tích hợp và trao đổi dữ liệu với Cổng dịch vụ công Quốc gia. Đến nay, theo thống kê của Văn phòng Chính phủ, hệ thống đã phục vụ người dân, doanh nghiệp với chất lượng tốt, ổn định.
Cùng với đó, Bộ đã xây dựng xong Hệ thống một cửa điện tử của Bộ Công Thương và đưa vào vận hành đúng tiến độ đã đề ra tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP và Thông tư số 01/2018/TT-VPCP của Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính.
Bộ đã ban hành Quyết định số 1330/QĐ-BCT ban hành Kế hoạch triển khai Đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính của Bộ Công Thương. Tính đến thời điểm báo cáo, việc cập nhật kết quả giải quyết hồ sơ TTHC luôn được Bộ Công Thương thực hiện đảm bảo, đúng quy định. Việc giải quyết TTHC của Bộ Công Thương đảm bảo thời hạn, tiến độ quy định và các yêu cầu về nội dung theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật quy định về TTHC.
Về triển khai dịch vụ công trực tuyến: Đến thời điểm báo cáo, tất cả 303 thủ tục hành chính cấp Trung ương thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương đã được triển khai dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 2 trở lên. Hiện nay, Cổng Dịch vụ công (Cổng DVC) Bộ Công Thương đang cung cấp 236 DVCTT mức độ 3, 4 tại địa chỉ https://dichvucong.moit.gov.vn (08 DVCTT mức độ 3, 228 DVCTT mức độ 4) với hơn 46.000 doanh nghiệp tham gia khai báo. Tổng số hồ sơ dịch vụ công trực tuyến trong 5 tháng đầu năm 2023 là hơn 967 nghìn bộ hồ sơ, tương ứng hơn 99% tổng số hồ sơ được gửi đến Bộ. Đến nay, Bộ Công Thương cũng đã hoàn thành mục tiêu cung cấp 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức độ 4 trước thời hạn đề ra (trong năm 2021).
Về triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN: Hiện nay đã kết nối 16 nhóm DVCTT với Cơ chế một cửa quốc gia (VNSW). Tổng số hồ sơ thực hiện trên VNSW trong 5 tháng đầu năm 2023 là hơn 136 nghìn bộ hồ sơ. Riêng đối với thủ tục Cấp giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan), kết nối thành công với Cơ chế một cửa ASEAN (ASW) và đã trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D điện tử với 9 nước bao gồm: Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Bruinei, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippine. Trong 5 tháng đầu năm 2023, tổng số hồ sơ điện tử đã trao đổi với các nước là hơn 105 nghìn bộ hồ sơ.
Đối với việc thực thi Hiệp định CPTPP, đã thiết lập, bổ sung thông tin của Chi-lê trên eCoSys hệ thống hoạt động đúng thời gian đã thống nhất giữa các bên.
Về kết nối Cổng dịch vụ công Bộ Công Thương với Cổng dịch vụ công quốc gia: Đến cuối tháng 12 năm 2019, đã đưa tổng cộng 131 DVCTT mức độ 3, 4 của Bộ Công Thương lên Cổng DVCQG. Trong 5 tháng đầu năm 2023, Cổng DVC Bộ Công Thương đã trao đổi hơn 604 nghìn bộ hồ sơ điện tử với Cổng DVCQG.
Đối với thủ tục Thông báo thực hiện khuyến mại, mặc dù đã được phân cấp về các địa phương, Bộ cũng đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ làm đầu mối, triển khai thủ tục này trên Cổng DVCQG để tạo điều kiện cho doanh nghiệp chỉ khai báo một lần duy nhất cho tất cả các tỉnh trên toàn quốc, kết nối, liên thông dữ liệu điện tử đến các Hệ thống một cửa điện tử của các tỉnh (thay vì khai báo trên từng tỉnh như trước đây). Trong 5 tháng đầu năm 2023, các doanh nghiệp đã khai báo hơn 31 nghìn bộ hồ sơ điện tử đối với thủ tục này trên Cổng DVCQG. Với kết quả đạt được, Bộ Công Thương đã được Văn phòng Chính phủ ghi nhận là một trong những đơn vị đi đầu trong cả nước đối với việc kết nối Cổng DVCQG (cả về số lượng DVCTT và số lượng hồ sơ điện tử).
4.3. Công tác thanh tra tiếp tục được thực hiện nghiêm: Theo Kế hoạch thanh tra năm 2023, Bộ Công Thương sẽ thanh tra 260 cuộc (Quyết định số 2528/QĐ-BCT ngày 25/11/2022 của Bộ Công Thương). Đến nay đã triển khai 04 cuộc Thanh tra theo Kế hoạch và lập Đoàn Thanh tra đột xuất về điện lực theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Qua các cuộc thanh tra, phát hiện vi phạm liên quan đến các quy định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương và đã ban hành 01 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền xử phạt vi phạm là 188.000.000 đồng.
Về công tác xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo: 6 tháng đầu năm, Bộ đã tiếp nhận 280 đơn, trong đó: số đơn có danh là 248 đơn; đơn nặc danh, không có danh, nêu danh nhưng không ký tên là 32 đơn. Bộ đã thành lập 06 đoàn về giải quyết khiếu nại, xác minh tố cáo và tập trung xử lý theo đúng chức năng, thẩm quyền và các quy định của pháp luật, giải quyết kịp thời các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; giải quyết dứt điểm, không có vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.
Về công tác tiếp công dân: 6 tháng đầu năm, Bộ đã thực hiện 10 cuộc tiếp công dân (07 vụ việc) với 19 lượt người, không có đoàn đông người (tháng 4, Bộ trưởng ủy quyền cho Ủy ban cạnh tra quốc gia chủ trì, Thanh tra Bộ phối hợp tiếp công dân). Nội dung chủ yếu đề nghị được giải quyết về chế độ, quyền lợi của người lao động, an sinh xã hội; phản ánh hoạt động, công tác cán bộ tại một số đơn vị. Các vụ việc đều được cán bộ tiếp công dân lắng nghe, trao đổi, giải thích. Đối với vụ việc thuộc thẩm quyền của Bộ Công Thương hoặc đơn vị thuộc Bộ, Bộ tiếp nhận để giải quyết; đối với vụ việc không thuộc thẩm quyền, Bộ đã hướng dẫn người dân đến đúng nơi có thẩm quyền để được giải quyết.
4.4. Công tác tổ chức cán bộ: được triển khai tích cực, hiệu quả bám sát tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Chương trình hành động của Chính phủ, đảm bảo hoạt động ổn định cho các cơ quan thuộc Bộ. Trong 6 tháng đầu năm 2023, các nội dung, nhiệm vụ liên quan đến công tác quản lý nhà nước về cán bộ, tổ chức, lao động tiền lương và đào tạo bồi dưỡng của Bộ Công Thương được triển khai tích cực, hiệu quả bám sát tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Chương trình hành động của Chính phủ, của Bộ Công Thương. Về cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ trong công tác tổ chức cán bộ, nổi bật là triển khai thực hiện Nghị định mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ trong nhiệm kỳ Chính phủ 2021-2026, công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí sử dụng cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị thuộc Bộ.
4.5. Về thực hiện giải ngân vốn đầu tư công: Năm 2023, Bộ Công Thương được Thủ tướng Chính phủ giao 872,248 tỷ đồng. Đến ngày 30/12/2022, đã phân bổ kế hoạch 802,248 tỷ đồng (đạt 91,9% số vốn Chính phủ giao) cho 47 dự án. Đến cuối tháng 6 năm 2023, giá trị giải ngân đạt 91,638 tỷ đồng, bằng 10,42% tổng số vốn được Thủ tướng Chính phủ giao[5].
4.6. Công tác quản lý cụm công nghiệp và khuyến công quốc gia được triển khai đồng bộ, hiệu quả; các hoạt động phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, kết nối giao thương tại các địa phương được đẩy mạnh, góp phần phát triển công nghiệp và thương mại tại các địa phương. Đến tháng 6/2023, cả nước thành lập khoảng 1.084 cụm công nghiệp (CCN) với tổng diện tích hơn 39.000 ha; có 734 CCN (tổng diện tích 23.300 ha) đi vào hoạt động, thu hút hơn 13.000 dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân 64,8%, tạo việc làm cho trên 776.000 lao động; 176 CCN có công trình xử lý nước thải.
Chương trình khuyến công quốc gia được giao 140 tỷ đồng, 105 đề án/nhiệm vụ đã được phân bổ kinh phí, tập trung vào nội dung xây dựng mô hình, hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất cho các cơ sở công nghiệp nông thôn, các nội dung có tính chất thường xuyên liên tục, thông tin tuyên truyền về hoạt động khuyến công đảm bảo hiệu quả,… cơ bản các đề án/nhiệm vụ đã và đang triển khai theo tiến độ đã đề ra.
4.7. Công tác phát triển điện lực đã tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo cung ứng điện phục vụ sản xuất và phát triển KT - XH và thực hiện công khai minh bạch về hoạt động kinh doanh điện. Đặc biệt, Bộ đã hoàn thành Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023), mở ra không gian phát triển mới cho ngành năng lượng theo hướng bền vững, phù hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước và khả năng thực tế của đất nước cũng như xu thế phát triển của quốc tế, như xu hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ đã thực hiện tiếp nhận và kiểm tra công tác nghiệm thu 97 dự án/công trình (bao gồm các dự án nguồn và lưới điện), góp phần đẩy nhanh, sớm đưa các công trình vào hoạt động.
Công tác điều hành giá điện trong 6 tháng đầu năm 2023 được triển khai quyết liệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Bộ đã ban hành Quyết định số 21/QĐ-BCT ngày 07/01/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc ban hành khung giá phát điện nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp; kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2022 của EVN; chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) xây dựng phương án giá bán điện bình quân năm 2023 theo đúng quy trình tại Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân (giá bán lẻ điện bình quân năm 2023 đã điều chỉnh tăng ở mức 3% từ ngày 04 tháng 5 năm 2023); Ban hành quy định về giá bán lẻ điện cho các nhóm khách hàng sử dụng điện và giá bán điện cho các đơn vị bán lẻ điện (Quyết định số 1062/QĐ-BCT ngày 04/5/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương)...
Công tác thị trường điện tiếp tục được đẩy mạnh, vận hành thị trường bán buôn điện cạnh tranh. Tính cạnh tranh trên thị trường bán buôn điện đã từng bước được nâng cao, với sự tham gia cạnh tranh của 108 nhà máy điện với tổng công suất 30.768 MW và 06 đơn vị mua điện. Việc vận hành thị trường điện đã đẩy mạnh tính minh bạch trong huy động các nhà máy điện, tạo môi trường cạnh tranh giữa các đơn vị phát điện, tăng cường tính chủ động của các nhà máy điện trong công tác vận hành, đồng thời từng bước xóa bỏ độc quyền trong ngành điện theo đúng tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong lĩnh vực nhiệt điện và điện hạt nhân, tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành và đơn vị liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn cho các dự án Thái Bình 2, Long Phú 1, Quảng Trạch 1, Nhơn Trạch 3, 4 và chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) khẩn trương hoàn thành để đưa Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 vào hoạt động, góp phần bảo đảm kịp thời cung ứng điện cho miền Bắc nói riêng và cả nước nói chung trong mùa khô năm 2023 và các giai đoạn tiếp theo. Đồng thời, đôn đốc chủ đầu tư các dự án nhiệt điện: Quảng Trạch 1, Ô Môn 2, 3, 4, Nhơn Trạch 3, 4, Hiệp Phước, Sơn Mỹ 1, Sơn Mỹ 2, Anh Khánh - Bắc Giang, LNG Long An 1 và 2, LNG Quảng Ninh... thực hiện dự án và tháo gỡ kịp thời các vướng mắc thuộc thẩm quyền.
Trong lĩnh vực thủy điện, tiếp tục tập trung công tác chỉ đạo, điều hành về quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành các dự án/công trình thủy điện. Công tác quản lý chuyên môn về xây dựng đối với công trình, dự án trong lĩnh vực lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối và điện nông thôn được tích cực triển khai.
4.8 Công tác chỉ đạo điều hành đối với mặt hàng xăng dầu được triển khai tích cực, kịp thời để đảm bảo nguồn cung xăng dầu. Để bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước, Bộ Công Thương đã có Công điện khẩn số 8544/CĐ-BCT ngày 31 tháng 12 năm 2022 gửi Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu về việc bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường. Trong tháng 4 và tháng 6 năm 2023, Bộ Công Thương đã 02 lần tổ chức cuộc họp với các thương nhân đầu mối sản xuất xăng dầu và thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu bàn về các giải pháp đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước trong thời gian tới.
Trong công tác điều hành giá xăng dầu trong nước thời gian qua, Bộ Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, thực hiện nhất quán, đúng quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và Nghị định 95/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để điều hành giá xăng dầu trong nước phù hợp với diễn biến giá xăng dầu thế giới. Sử dụng công cụ Quỹ Bình ổn giá một cách hiệu quả và linh hoạt nhằm hạn chế mức biến động mạnh của giá xăng dầu trong nước so với biến động của giá thế giới, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường, giúp duy trì nguồn cung xăng dầu ổn định cho thị trường trong nước, góp phần thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Nhằm bình ổn giá xăng dầu trong nước trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới liên tục tăng cao, số dư Quỹ Bình ổn giá xăng dầu ở mức thấp do liên tục chi Quỹ, Bộ Tài chính đã rà soát và trình các cấp có thẩm quyền giảm thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng dầu theo quy định (ngày 30/12/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn).
4.9. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế được tăng cường, các hoạt động hội nhập quốc tế bằng những phương thức mới với nhiều sáng kiến mới. Việt Nam tiếp tục đóng góp có trách nhiệm trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, APEC, WTO; Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã phát huy hiệu quả, giúp các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác ASEAN, tiếp tục phối hợp, hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN để thực hiện các mục tiêu đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2025 (KHTT 2025). Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN để đóng góp ý kiến cho các sáng kiến này tại các Hội nghị Quan chức Kinh tế ASEAN (SEOM) và Hội nghị Nhóm Đặc trách cao cấp về Hội nhập Kinh tế ASEAN (HLTF-EI). Tại các Hội nghị trong khuôn khổ hợp tác kinh tế ASEAN, Việt Nam bày tỏ sự ủng hộ đối với các sáng kiến ưu tiên hợp tác kinh tế của In-đô-nê-xi-a trong năm Chủ tịch ASEAN 2023, đồng thời khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN khác để thực thi các mục tiêu chung của Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Công tác APEC, đã chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành và đơn vị liên quan chuẩn bị nội dung và tham dự: (i) Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC lần thứ 29 (MRT 29) và các sự kiện bên lề - tháng 5 năm 2023; (ii) Hội nghị các Quan chức Cao cấp APEC lần thứ nhất (SOM 1) và thứ 2 (SOM 2); (iii) Phiên họp lần thứ 65 của Nhóm công tác Năng lượng APEC (EWG 65); và (iv) nhiều cuộc họp nhóm/chuyên ngành liên quan. Tại các Hội nghị/cuộc họp trên, ta đã chủ động tham gia đối thoại nhiều vấn đề chủ chốt nhằm triển khai kết quả của Năm APEC Thái Lan 2022 đồng thời tiếp tục đẩy mạnh sự phối hợp và tăng cường hợp tác APEC trong nhiều lĩnh vực mang tính xu hướng toàn cầu.
Công tác WTO, Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Phái đoàn Việt Nam tại Giơ-ne-vơ, Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế và một số Bộ, ngành hữu quan chuẩn bị nội dung và tham dự một số phiên họp thường kỳ của WTO; Đón tiếp đoàn thăm và làm việc tại Việt Nam của bà Ngozi, Tổng Giám đốc WTO trong tháng 5 năm 2023.
Công tác FTA, tiếp tục thực hiện các hoạt động tuyên truyền về các cam kết trong các Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKFTA, RCEP… cho doanh nghiệp để đẩy mạnh xuất khẩu. Đã kết thúc đàm phán FTA giữa Việt Nam và I-xa-ren (VIFTA)[6]; Đã ký Tuyên bố cấp Bộ trưởng về ý định tiến tới đàm phán Hiệp định CEPA Việt Nam – UAE và dự kiến khởi động đàm phán.
4.10. Công tác xúc tiến thương mại (XTTM) được đẩy mạnh nhằm tiếp tục tập trung mở rộng thị trường xuất khẩu gắn với kiểm soát nhập khẩu, đảm bảo ổn định cán cân thương mại. Bộ đã triển khai nhiều hoạt động XTTM với một số hoạt động thuộc Chương trình cấp quốc gia về XTTM theo hướng kịp thời đổi mới, đa dạng hóa phương thức XTTM, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong công tác XTTM... qua đó đã hỗ trợ thiết thực có hiệu quả cho các doanh nghiệp, hiệp hội, địa phương. Chương trình cấp quốc gia về XTTM năm 2023 đã được Bộ Công Thương phê duyệt gồm 113 đề án với tổng kinh phí thực hiện là 136 tỷ đồng (84 đề án nội dung phát triển ngoại thương, 37 đề án nội dung phát triển thị trường trong nước). Đến nay, các đơn vị chủ trì chương trình cấp quốc gia về XTTM đã triển khai được 25 đề án theo đúng kế hoạch gồm các đề án tham gia Hội chợ triển lãm quốc tế, tổ chức đoàn giao thương tại thị trường nước ngoài, tổ chức hội nghị quốc tế ngành hàng, tổ chức hội chợ vùng, tổ chức hội nghị kết nối giao thương, xây dựng và phát triển thông tin ngành hàng, hỗ trợ khoảng hơn 1.000 lượt doanh nghiệp tham gia...
Ngoài ra, trong khung khổ Chương trình cấp quốc gia về XTTM năm 2023 có 14 đề án kết nối giao thương trực tiếp giữa nhà cung cấp với các doanh nghiệp xuất khẩu, XTTM qua môi trường mạng (tổ chức, tham gia chuỗi hội nghị kết nối giao thương trên nền tảng số, giới thiệu hàng hóa xuất khẩu trên các sàn thương mại điện tử) nhằm tăng cường kết nối cung cầu bằng phương thức truyền thống và phương thức mới, qua đó tăng cường cơ hội cho các nhà xuất khẩu - nhập khẩu của Việt Nam được kết nối với các nhà cung cấp, nhà xuất – nhập khẩu quốc tế, gia tăng cơ hội hợp tác, đa dạng hóa mặt hàng và thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp từng bước tham gia vào các khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhằm đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp, nhà cung cấp địa phương duy trì sản xuất kinh doanh, hướng tới xuất khẩu trong tình hình mới, Bộ Công Thương đã và đang phối hợp với các Sở Công Thương, Trung tâm Xúc tiến của địa phương tổ chức Chương trình kết nối nhà cung ứng địa phương với các doanh nghiệp xuất khẩu và tổ chức XTTM với quy mô lớn tại 3 vùng miền Bắc, Trung, Nam với mục tiêu: (i) Kết nối doanh nghiệp với các cơ quan đại diện, tổ chức XTTM nước ngoài tại Việt Nam, từ đó, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu trực tiếp vào mạng lưới phân phối nước ngoài; (ii) Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhà phân phối của các địa phương gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, tìm hiểu thông tin thị trường, thúc đẩy sản xuất, kết nối cung cầu hàng hóa, phát triển hệ thống phân phối, phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người dân và đẩy mạnh xuất khẩu.
Bộ Công Thương cũng đã triển khai thực hiện hiệu quả các hoạt động cung cấp thông tin về thị trường, ngành hàng, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu mục tiêu quan trọng và một số thị trường mới còn nhiều dư địa khai thác cho các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp; Thường xuyên tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp với các nội dung đa dạng như: các vấn đề tiếp cận và phát triển thị trường, quảng bá thương hiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác,…
4.11. Công tác quản lý nhà nước về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: đã chủ động nghiên cứu, rà soát các giao dịch mua bán, sáp nhập trên thị trường đặc biệt trong lĩnh vực thương mại điện tử và bán lẻ; thẩm định hồ sơ thông báo tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật; xem xét các vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh để có biện pháp can thiệp phù hợp... Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (UBCTQG) đã được kiện toàn tổ chức, triển khai ngay hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ.
Về cạnh tranh, trong 06 tháng đầu năm 2023, đã tiếp nhận, xác minh làm rõ thông tin đối với 7 vụ việc (04 vụ việc liên quan đến các dấu hiệu hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực độc quyền pháo hoa; điện thoại thông minh; tài trợ trong các giải bóng đá; phí duy trì trong các căn hộ nghỉ dưỡng “time-share”; 03 vụ việc liên quan đến dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giáo dục (nhà trẻ); sữa và phòng tranh.
Về tập trung kinh tế, từ đầu năm đến nay, UBCTQG đã tiếp nhận và xử lý 62 hồ sơ thông báo Tập trung kinh tế trong nhiều ngành/lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có nhiều giao dịch thực hiện ở nước ngoài nhưng có ảnh hưởng tới thị trường Việt Nam, nhiều giao dịch doanh nghiệp nước ngoài mua lại doanh nghiệp Việt Nam,... Đến thời điểm hiện nay, UBCTQG đã trả lời 46 hồ sơ thông báo tập trung kinh tế. Đồng thời, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện quy định về thông báo tập trung kinh tế theo quy định pháp luật về cạnh tranh, UBCTQG đã xây dựng quyết định về việc ban hành mẫu thông báo tập trung kinh tế, đồng thời, đăng tin hướng dẫn quy trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế.
Công tác quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp: Trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ Công Thương tiếp tục duy trì hiệu quả công tác quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp. Hoạt động bán hàng đa cấp trên cả nước được duy trì ổn định. Bộ Công Thương đã hoàn thiện công tác công bố thủ tục hành chính cũng như có những chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đối với các địa phương khi có thay đổi liên quan đến thủ tục hành chính, hướng dẫn các địa phương trong việc công bố thủ tục hành chính để đảm bảo triển khai liên tục, thông suốt. Các thông tin quản lý được Bộ Công Thương cập nhập thường xuyên cho các Sở Công Thương để thống nhất trong quản lý…
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động bán hàng đa cấp: đã phản ứng kịp thời trước các thông tin phản ánh về các dấu hiệu vi phạm của tổ chức, cá nhân bán hàng đa cấp. Bộ đã nhanh chóng có văn bản chỉ đạo, yêu cầu Sở Công Thương địa phương và Hiệp hội Bán hàng đa cấp Việt Nam vào cuộc xác minh, giải quyết và báo cáo tình hình; phối hợp hiệu quả với cơ quan công an các cấp trong việc xác minh thông tin, xác định mô hình hoạt động của các đối tượng có dấu hiệu lợi dụng mô hình kinh doanh đa cấp để trục lợi và xử lý theo quy định pháp luật.
Công tác tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng: Trong 6 tháng đầu năm 202[7], Tổng đài tư vấn và hỗ trợ người tiêu dùng (1800.6838) đã ghi nhận 4.138 cuộc gọi đến, trong đó, các tổng đài viên đã tiếp nhận và trả lời 3.140 cuộc gọi, chiếm khoảng 75,8%. Trong đó, có khoảng 80% cuộc gọi liên quan đến yêu cầu tư vấn, hỗ trợ liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Các cuộc gọi còn lại có nội dung tư vấn các lĩnh vực khác.
Công tác tiếp nhận, hỗ trợ giải quyết đơn, thư phản ánh của người tiêu dùng: Trong 6 tháng đầu năm 2023 đã tiếp nhận 985 đơn, thư phản ánh, yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng qua nhiều phương thức, gồm: (i) qua dịch vụ bưu chính (chiếm khoảng 73%); (ii) qua hộp thư điện tử (chiếm khoảng 21,7%) và (iii) qua website (chiếm khoảng 5,3%). Trong tổng số 985 đơn, thư được tiếp nhận, các lĩnh vực kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chủ yếu bị phản ánh, khiếu nại bao gồm: kinh doanh quyền sở hữu kỳ nghỉ; bất động sản, nhà ở, chung cư; dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm nhân thọ; viễn thông; thương mại điện tử; hàng hóa tiêu dùng thường ngày; phương tiện vận chuyển và dịch vụ vận tải.
4.12. Công tác quản lý Nhà nước về phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ được triển khai đồng bộ, toàn diện trên tất cả các mặt theo đúng chủ trương “chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế” tại Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra. Công tác phòng vệ thương mại (PVTM) của Việt Nam đã được đẩy mạnh cả về phạm vi, quy mô, mức độ và đạt được kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Triển khai đồng bộ các hoạt động nhằm thực hiện các nhiệm vụ được giao trong khuôn khổ các chương trình, đề án lớn nhằm tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, nâng cao năng lực về PVTM; đẩy mạnh công tác thực thi, sử dụng và ứng phó với các biện pháp PVTM nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, xuất khẩu (Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra áp dụng tổng cộng 25 vụ việc PVTM với các mặt hàng điều tra đa dạng); đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về PVTM cho các doanh nghiệp, người dân, đặc biệt nội dung thông tin về PVTM đã được cụ thể hóa, chi tiết cho từng ngành hàng/từng nhóm ngành hàng góp phần thực hiện chủ trương tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp phát triển các ngành sản xuất, xuất khẩu trong nước.
Về công tác cảnh báo sớm, đã thực hiện tổng hợp thông tin để cập nhật Danh sách các mặt hàng cảnh báo sớm (hiện Bộ đang theo dõi biến động xuất khẩu của 40 mặt hàng và định kỳ đưa ra danh sách cảnh báo gồm 14 mặt hàng để thông tin cho các cơ quan chức năng, các hiệp hội, doanh nghiệp và các bên liên quan khác.
Về công tác ứng phó với các vụ việc PVTM do nước ngoài điều tra và áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam: Đến hết tháng 6 năm 2023, các nước đã khởi kiện 231 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (bao gồm 128 vụ việc chống bán phá giá, 23 vụ việc chống trợ cấp, 47 vụ việc tự vệ, 33 vụ việc chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại). Riêng trong 6 tháng đầu năm 2023, các nước đã khởi kiện 4 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (3 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc tự vệ), giảm nhẹ so với 5 vụ việc trong cùng kỳ của năm 2022. Trong các vụ việc này, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp xử lý hiệu quả.
4.13. Công tác quản lý, đảm bảo trật tự thị trường, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên thị trường nội địa tiếp tục được củng cố: Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, Bộ Công Thương đã kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành, đôn đốc lực lượng QLTT phối hợp với các lực lượng chức năng liên quan xây dựng và triển khai các phương án, kế hoạch kiểm tra, xử lý vi phạm về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; tăng cường công tác quản lý địa bàn, xử lý kịp thời vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm soát chặt chẽ công tác niêm yết giá bán và bán đúng giá niêm yết, đấu tranh chống hoạt động kinh doanh hàng nhập lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng gian lận thương mại, hàng kém chất lượng, các hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm hàng hóa trên thị trường để đầu cơ, găm hàng hoặc lợi dụng dịch bệnh để định giá bán hàng hóa bất hợp lý, đặc biệt là đối với mặt hàng xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng, thực phẩm, trang thiết bị y tế[8]... Từ 15/12/2022-14/6/2023, lực lượng QLTT đã kiểm tra 35.678 vụ (tăng 17% so với cùng kỳ năm 2022), phát hiện, xử lý 26.195 vụ vi phạm (tăng 51,2% so với cùng kỳ năm 2022), thu nộp NSNN trên 226 tỷ đồng (tăng 65% so với cùng kỳ năm 2022); chuyển cơ quan điều tra 101 vụ có dấu hiệu hình sự (tăng 87% so với cùng kỳ năm 2022).
4.14. Công tác khoa học - công nghệ được chú trọng, tập trung vào hoàn thiện Chiến lược khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030; xây dựng kế hoạch, triển khai các chương trình, đề án trọng điểm cấp Bộ đã được phê duyệt về hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển công nghiệp sinh học, chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Bộ phục vụ nghiên cứu, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị trong các ngành công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ 4.0 và thực hiện chuyển đổi số, phát triển sản xuất thông minh… Các nội dung ưu tiên đã được cụ thể hóa trong nội dung đặt hàng nhiệm vụ KH&CN hàng năm của Bộ, trong đó đặc biệt ưu tiên các nhiệm vụ có sự tham gia ứng dụng, triển khai của doanh nghiệp; hoạt động ứng dụng, đổi mới công nghệ, triển khai chuyển đổi số trong các doanh nghiệp ngành Công Thương tiếp tục có những cải thiện đáng kể. Công tác quản lý, tổ chức triển khai hoạt động KH&CN tiếp tục được đổi mới; các quy định quản lý được rà soát, cụ thể hóa nội dung, phương thức phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ đảm bảo thống nhất, minh bạch, thuận lợi trong công tác triển khai. Cơ bản hoàn thành các mục tiêu trong Lộ trình hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của ngành Công Thương giai đoạn đến 2025. Trong 6 tháng đầu năm 2023 đã thẩm tra, chuyển Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định 07 TCVN, công bố 22 TCVN; nhiều TCVN, QCVN đã được giao các đơn vị xây dựng, trong quá trình thẩm tra, thẩm định để trình phê duyệt; mạng lưới các tổ chức đánh giá sự phù hợp trong ngành Công Thương được mở rộng cùng với việc tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của các tổ chức nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật và đồng thời, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp.
4.15. Về các mặt công tác khác như bảo đảm an toàn môi trường công nghiệp; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được thực hiện một cách quyết liệt, thực chất và đồng bộ.... Qua đó các chủ trương, định hướng lớn của Trung ương và của Chính phủ đều được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động để thống nhất chỉ đạo, bám sát tổ chức triển khai thực hiện trong toàn ngành và đạt kết quả tốt.
III. NHỮNG TỒN TẠI HẠN CHẾ
1. Tồn tại, hạn chế
Về sản xuất công nghiệp, tuy có chuyển biến tích cực nhưng còn chậm và chưa phục hồi hoàn toàn so với cùng kỳ, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) toàn ngành giảm 1,2%, riêng với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,6% do cầu thế giới sụt giảm đối với các ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như điện tử, dệt may, đồ gỗ,...
- Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,44% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023[9], chỉ đóng góp 0,15 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,37%[10], chỉ đóng góp 0,1 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
- Chỉ số IIP của một số ngành trọng điểm trong xuất khẩu giảm: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 7,7%; sản xuất giấy, sản phẩm từ giấy giảm 7,5%; sản xuất trang phục và sản xuất xe có động cơ cùng giảm 6,8%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân nhóm giảm 4,7%; sản xuất kim loại và sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học cùng giảm 4,6%.
- Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,4%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2023 tăng 9,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 14,1%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2023 là 83,1% (bình quân 6 tháng đầu năm 2022 là 78%)... cho thấy những khó khăn trong tìm kiếm đơn hàng và tiêu thụ sản phẩm.
- Trong 6 tháng đầu năm, còn 15 địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện giảm. Các địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước như: Quảng Nam giảm 32,2%; Bắc Ninh giảm 18,5%; Vĩnh Long giảm 16,2%; Sóc Trăng giảm 11,1%; Hòa Bình giảm 4,3%. Các địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước như: Điện Biên giảm 41,6%; Cao Bằng giảm 40%; Hà Giang giảm 39,9%; Sơn La giảm 39,5%; Lai Châu giảm 28,2%; Quảng Nam giảm 13,6%; Hòa Bình giảm 6,6%. Các địa phương có chỉ số sản xuất ngành khai khoáng 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước, như: Vĩnh Long giảm 73,6%; Hà Giang giảm 33,9%; Điện Biên giảm 11,4%.
- Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước như: điện thoại di động giảm 19,2%; ô tô và thép thanh, thép góc cùng giảm 18,2%; quần áo mặc thường giảm 7,1%; linh kiện điện thoại giảm 5,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 4,3%; phân u rê giảm 4,1%; xi măng giảm 3,9%; xe máy giảm 3,5%.
- Các doanh nghiệp còn khó khăn trong việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ở trong bối cảnh rất khó khăn do thiếu đơn hàng, khả năng hấp thụ vốn đã bắt đầu giảm. Giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong nước.
Xuất khẩu, là một trong những động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế tiếp tục gặp nhiều khó khăn khi kim ngạch xuất khẩu 6 tháng giảm 12,1% so với cùng kỳ trong bối cảnh thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm. Kim ngạch XK của Việt Nam so với cùng kỳ giảm sâu hơn so với một số nước trong khu vực ASEAN (tính đến hết tháng 5/2023, xuất khẩu của Việt Nam giảm 12,25% so với cùng kỳ, trong khi của Thái Lan giảm 5,1%, Indonesia giảm 6%, Malaysia giảm 2,3%... ).
- Xuất khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm sang các thị trường chủ lực đều giảm so với cùng kỳ năm trước: xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giảm 22,6%, EU giảm 10,1%; Trung Quốc giảm 2,2%; Hàn Quốc giảm 10,2%; Nhật Bản giảm 3,3%; ASEAN giảm 8,7%...
- Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến, chế tạo đều giảm, trong đó có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dệt may giảm 15,3%; giày dép các loại giảm 15,2%; điện thoại các loại và linh kiện giảm 17,9%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 28,8%, phân bón các loại giảm 45,6%...
- Một số ngành hàng xuất khẩu như thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt thép, sản phẩm nhựa tiếp tục đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại đã tạo ra những khó khăn về thị trường xuất khẩu thời gian qua.
- Một số nông sản còn quá dựa vào hình thức trao đổi cư dân, tiểu ngạch nên luôn tiềm ẩn nguy cơ bị ách tắc tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến hoạt động thương mại qua biên giới.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của các nhóm hàng chủ lực và là đầu vào quan trọng phục vụ sản xuất các ngành hàng xuất khẩu như điện thoại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; nguyên phụ liệu dệt may, da giày… đều giảm sâu ở mức hai con số (kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện giảm tới 66,5%, đạt 3,45 tỷ USD; máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 11,4%, đạt 38,3 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng giảm 12,3%, đạt 19,7 tỷ USD; vải các loại giảm 19,2%, đạt 6,43 tỷ USD; thép các loại giảm 32,3%, đạt 4,72 tỷ USD; chất dẻo nguyên liệu giảm 30,7%, đạt 4,7 tỷ USD; nguyên phụ liệu dệt, may, da giày giảm 17,8%, đạt 2,89 tỷ USD...
Về thị trường trong nước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng năm 2023 mặc dù có quy mô lớn hơn nhưng tốc độ tăng đang chậm lại và thấp hơn cùng kỳ năm trước (10,9% so với mức tăng 12,2% của cùng kỳ năm trước) cho thấy tiêu dùng trong nước ngày càng thu hẹp do thu nhập sụt giảm dẫn đến sức mua thấp. Đồng thời, tình trạng buôn bán, kinh doanh hàng nhập lậu, gian lận thương mại và sản xuất, kinh doanh hàng giả trên thị trường nội địa còn diễn biến phức tạp.
Hạ tầng thương mại xét về tổng thể còn yếu kém và lạc hậu, đặc biệt là ở khu vực thị trường nông thôn dẫn đến chi phí trung gian của doanh nghiệp, hộ gia đình vẫn ở mức cao do mạng lưới phân phối, tiêu thụ nguyên vật liệu và hàng hóa thành phẩm nhiều tầng nấc.
Nhìn chung, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, áp lực lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng còn ở mức cao, nhu cầu tiêu dùng và các hoạt động kinh tế tiếp tục suy giảm đã tác động đến thị trường xuất khẩu của nước ta thời gian qua. Ở trong nước, do nền kinh tế có độ mở lớn, năng lực nội tại, sức chống chịu, khả năng thích ứng còn hạn chế và vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid -19 đã ảnh hưởng đến sức mua, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tại thị trường trong nước, đòi hỏi trong thời gian tới cần tiếp tục có các giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển thị trường trong nước, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Ngành năng lượng tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, trong một vài thời điểm nguồn cung xăng dầu bị đứt gãy cục bộ tại một số địa phương, xảy ra thiếu điện ở một số địa phương phía Bắc gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt; thực hiện chuyển dịch năng lượng từ các nguồn năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nhằm thực thi cam kết về giảm phát thải tại COP26… còn chậm.
Công tác xây dựng quy hoạch ngành (quy hoạch điện VIII, quy hoạch năng lượng quốc gia, quy hoạch khai thác khoáng sản, quy hoạch hạ tầng xăng dầu và khí đốt) kéo dài do phát sinh những yếu tố mới cần phải tuân thủ, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình; các quy hoạch có nội dung đan xen, phụ thuộc lẫn nhau khiến quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành bị chậm.
Công tác cải cách, xây dựng thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính ở một số lĩnh vực, đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu về thời gian; Hội nhập quốc tế về kinh tế tập trung nhiều vào chiều rộng, chưa tập trung đi vào chiều sâu; Khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện tái cơ cấu và phát triển ngành theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh; Công tác xúc tiến thương mại, quản lý cạnh tranh, quản lý thị trường, công tác phòng vệ thương mại cần được tiếp tục đẩy mạnh. Công tác ứng phó với các vấn đề mới, các thay đổi từ bên ngoài đôi lúc còn bị động, chưa linh hoạt…
2. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế
Phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại 6 tháng đầu năm 2023 phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
- Lạm phát vẫn ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt; kinh tế thế giới hồi phục chậm và sự sụp đổ của một số ngân hàng trên thế giới có những tác động nhất định đến xu hướng thắt chặt chi tiêu, mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ, nhất là tại một số thị trường tiêu thụ lớn các mặt hàng như dệt may, da giày, đồ gỗ, linh kiện điện tử (như Mỹ, EU) khiến nhu cầu nhập khẩu giảm.
- Việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam.
- Các doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục gặp khó trong việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường do chi phí đầu vào nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay mặc dù đang giảm dần nhưng còn ở mức cao. Các thị trường xuất khẩu chính thắt chặt chính sách tiền tệ gây bất lợi cho giá xuất khẩu của Việt Nam và gia tăng cạnh tranh từ việc Trung Quốc đã mở cửa trở lại trong thời gian gần đây.
- Các doanh nghiệp sản xuất thiếu đơn hàng, giá xuất khẩu giảm ở nhiều nhóm hàng như nông sản (nhân điều, cà phê, hạt tiêu, cao su…); dầu thô, sản phẩm xăng dầu, các loại quặng, phân bón, sắt thép ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu nói chung;
- Kinh tế trong nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, cần thời gian để phục hồi, trong khi nền kinh tế có độ mở lớn, chịu nhiều tác động từ các yếu tố bất lợi bên ngoài.
- Việc thực thi Chương trình phục hồi kinh tế và triển khai các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp chưa kịp thời phát huy tác dụng, nhất là với doanh nghiệp sản xuất.
- Công tác ứng phó với các cú sốc bên ngoài đôi lúc còn bị động, chưa linh hoạt; Công tác đánh giá, dự báo tình hình, nghiên cứu, đề xuất chính sách trong một số trường hợp còn bị động, đôi lúc còn chưa theo kịp thực tiễn trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh Nga-Ucraina tiếp tục phức tạp; việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia diễn biến khó đoán định đã có những ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư, sản xuất, thị trường và chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu.
3. Bài học kinh nghiệm
- Bám sát thực tiễn, linh hoạt trong chỉ đạo điều hành, phối hợp đồng bộ trong tổ chức thực hiện; theo dõi chặt chẽ, nắm chắc tình hình, chủ động dự báo để kịp thời ứng phó với những biến động bất ngờ của tình hình thế giới và khu vực nhằm có các giải pháp điều hành phù hợp.
- Làm tốt công tác tổng kết, đánh giá để rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, xây dựng chính sách; kịp thời điều chỉnh, đề xuất chính sách khả thi; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội trong triển khai thực hiện.
- Chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; đề cao trách nhiệm người đứng đầu; nâng cao năng lực quản lý nhà nước, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các tình huống bất ngờ có thể xảy ra.
Nhìn chung, trong bối cảnh thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề vướng mắc trong nội tại nền kinh tế đã tích tụ qua thời gian, nhưng kết quả đạt được trong 06 tháng đầu năm của ngành Công Thương là rất đáng ghi nhận, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
IV. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2023
1. Bối cảnh, dự báo tình hình quốc tế và trong nước 6 tháng cuối năm
* Những thuận lợi
- FED quyết định giữ nguyên lãi suất ở mức 5,0 - 5,25% trong kỳ điều chỉnh tháng 6/2023 làm giảm áp lực đối với thị trường trong nước dù chỉ tạm thời. Việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, nới lỏng chính sách tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế sẽ có tác động tích cực trong thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong những tháng cuối năm.
- Sự phục hồi yếu của các nền kinh tế lớn như Mỹ và Trung Quốc thời gian qua đã làm giảm giá dầu trên thế giới (kỳ điều chỉnh giảm giá xăng dầu ngày 12/06/2023 của Bộ Tài chính không có nhiều biến đổi so với kỳ điều chỉnh trước đó). Đồng thời, việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ tiếp tục tạo cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư và du lịch.
- Việc các nước công nghiệp phát triển tiếp tục đẩy mạnh chiến lược đa dạng hoá nguồn cung, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đa dạng hoá đầu tư (Trung Quốc +1) sẽ giúp Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
- Vai trò của Việt Nam ngày càng cao trong ASEAN cùng với việc khu vực này là trọng tâm ảnh hưởng của các nước khu vực thị trường lớn và cũng là một trong những khu vực vẫn duy trì được sức tăng trưởng và tiềm lực kinh tế khiến ASEAN trở thành thị trường ngày càng quan trọng trong chính sách đối ngoại và kinh tế của các nước: EU xây dựng chiến lược Ấn Độ Dương Thái Bình Dương; Hoa Kỳ thúc đẩy đàm phán IPEF, Anh đàm phán thành công gia nhập CPTPP... cũng sẽ tạo thuận lợi đối với các hoạt động đầu tư và sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới.
Ở trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định xã hội trong bối cảnh biến động của địa chính trị và kinh tế thế giới diễn ra phức tạp, nhiều khó khăn thách thức sẽ tiếp tục tạo ra những thuận lợi trong thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh thời gian tới. Các tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá và dự báo tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 và thời gian tới. Kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng trong quý I và quý II/2023, tuy tốc độ chưa cao nhưng đã tạo cơ sở cho các quý tiếp theo của năm 2023.
- Chính phủ đã và sẽ tiếp tục nỗ lực đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công trong năm 2023, nhất là trong những tháng cuối năm để tạo sự tăng trưởng đột phá, tác động tích cực đến phục hồi và tăng trưởng ở một số ngành như thép, vật liệu xây dựng, cơ khí….
- Nhiều chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được triển khai, bao gồm cả thuế, phí sẽ giúp cộng đồng doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới. Chẳng hạn như, chính sách bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm (hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đang ở thuê; hỗ trợ tiền cho người lao động quay lại trở lại thị trường lao động làm việc…), chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí (như giảm thuế VAT cho hầu hết mặt hàng từ 10% xuống 8%; giảm 50% lệ phí trước bạ cho ô tô lắp ráp, sản xuất trong nước; giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay; giảm 30% tiền thuê đất, thuê mặt nước và gia hạn thời giạn nộp các loại thuế)... sẽ là những điều kiện thuận lợi tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục và phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Những tín hiệu tăng trưởng của ngành du lịch được kỳ vọng sẽ còn tiếp tục trong những tháng tới, đặc biệt là sự gia tăng lượng khách nước ngoài sẽ thúc đẩy ngành du lịch phát triển trong thời gian tới, cũng góp phần thúc đẩy tiêu dùng.
- Các hiệp định FTA đã ký với các đối tác thị trường lớn của Việt Nam như thị trường châu Âu, châu Mỹ tiếp tục có tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư và đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam. Một số mặt hàng may mặc bắt đầu được hưởng thuế nhập khẩu 0% vào thị trường EU theo hiệp định EVFTA... sẽ là những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này.
* Những khó khăn, thách thức trong các tháng cuối năm 2023
- Dự báo tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược các nước lớn ngày càng gay gắt, tính bất định gia tăng, tăng trưởng kinh tế toàn cầu phục hồi còn chậm và khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro; khủng hoảng năng lương, lương thực, đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất đầu vào còn tiềm ẩn, gây ra những hệ lụy nhất định tới tăng trưởng chung. Nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất tiếp tục duy trì ở mức cao khiến nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh tại các quốc gia trên thế giới trong đó có khu vực châu Âu – châu Mỹ, là những đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
- Sự bất ổn, không chắc chắn của kinh tế toàn cầu đang ở mức cao nhất trong nhiều năm, tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô và triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian tới, nhất là với nền kinh tế có độ mở lớn như nước ta. Kết quả phát triển thời gian tới của Việt Nam cũng phụ thuộc đáng kể vào khả năng đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, gắn với tận dụng cơ hội từ các FTA, xử lý các rủi ro gắn với cạnh tranh thương mại - công nghệ giữa các nước lớn, ứng phó với các chính sách quốc tế có tác động mạnh mẽ đến các ngành, lĩnh vực như việc áp dụng thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu, quy định của EU về việc nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp liên quan đến rừng, các sản phẩm thủy sản khai thác...
- Xu hướng phi toàn cầu hoá đang trỗi dậy mạnh mẽ; Chính sách bảo hộ của các nước ngày một tăng. Các nước phát triển càng ngày càng quan tâm nhiều đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu. Từ đó, dựng lên những tiêu chuẩn và quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động, môi trường đối với các sản phẩm nhập khẩu (dự luật chống phá rừng, CBAM của EU; Mỹ nâng cao và gắn các tiêu chuẩn lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ...với thương mại).
- Xu hướng dịch chuyển nguồn cung về gần thị trường tiêu thụ để giảm thiểu các rủi ro gián đoạn nguồn hàng ngày càng rõ nét trong việc đa dạng hóa nguồn cung của các thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Các tập đoàn đa quốc gia đang thực hiện chiến lược chuyển dịch chuỗi cung ứng, sản xuất đến gần với thị trường tiêu thụ (Near sourcing) và đang dạng hóa chuỗi cung ứng sản xuất, (thay vì chỉ tập trung nhà máy sản xuất ở một số nước như Trung Quốc, Việt Nam). Các tập đoàn đa quốc gia đang tập trung đầu tư các nhà máy sản xuất ở một số nước như: Ấn Độ, Mexico, Braxin… làm gia tăng đối thủ cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam và ảnh hưởng trực tiếp đến thị phần của Việt Nam tại các thị trường này.
Ở trong nước, chỉ số giá tiêu dùng trong nước vẫn được đánh giá ở mức khá cao so với các năm trước đó, việc tăng lương cơ sở từ 1/7/2023 vừa thúc đẩy cầu trong nền kinh tế nhưng có thể sẽ gây ra những hệ lụy nhất định đối với doanh nghiệp, người lao động, nhất là vấn đề gia tăng mặt bằng giá cả trong nước.
- Công tác điều hành giá cả dự kiến tiếp tục gặp nhiều khó khăn với áp lực lạm phát gia tăng do các mặt hàng nguyên vật liệu, các mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ tăng giá, rủi ro về tỷ giá tạo sức ép lên chi phí nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu trong nước.
- Hoạt động đảm bảo cung cấp điện, xăng dầu tuy đã được cải thiện nhưng còn tiềm ẩn nguy cơ do phụ thuộc yếu tố thời tiết, nguy cơ sự cố kỹ thuật tại các nhà máy và ảnh hưởng từ các đứt gãy nguồn cung xăng dầu quốc tế.
Từ những rủi ro, thách thức nêu trên, đòi hỏi toàn ngành phải tập trung nguồn lực với ý thức trách nhiệm cao, theo dõi chặt chẽ tình hình biến động cung cầu, giá cả hàng hóa trên thế giới và trong nước để kịp thời phản ứng chính sách, đề xuất các giải pháp ứng phó nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
2. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 06 tháng cuối năm 2023
Năm 2023, Chính phủ đã giao các chỉ tiêu chính của ngành Công Thương gồm: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng 8-9%; Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6%, duy trì xuất siêu; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 8-9%; Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu tăng khoảng 8-9,7%. Để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được Chính phủ giao, trong 6 tháng cuối năm, ngành Công Thương tập trung thực hiện những giải pháp sau:
Một là, tiếp tục tập trung đẩy mạnh triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01 của Chính phủ. Tập trung cao để hoàn thành có chất lượng và đúng thời hạn các nhiệm vụ được giao tại Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của ngành Công Thương năm 2023, các dự án sửa đổi, bổ sung các Luật và các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành.
Các địa phương khẩn trương chỉ đạo hoàn thiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 trên cơ sở phù hợp với các Định hướng phát triển 6 vùng chiến lược đã được Bộ Chính trị thông qua, Quy hoạch Tổng thể Quốc gia, các Quy hoạch ngành Công Thương làm cơ sở xây dựng Chiến lược, Chương trình hành động và các Đề án phát triển công nghiệp, thương mại trên địa bàn giai đoạn đến năm 2030; Bố trí nguồn lực phù hợp để thúc đẩy phát triển công nghiệp và thương mại của địa phương.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn và an sinh xã hội trong tình hình mới:
- Tập trung thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn và an sinh xã hội trong tình hình mới ngay sau khi Nghị quyết được ban hành.
- Bám sát tình hình sản xuất của các ngành, lĩnh vực để kịp thời nắm bắt, tích cực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Rà soát tồn đọng, bám sát tiến độ, tháo gỡ khó khăn để sớm đưa vào vận hành các công trình dự án trọng điểm, có vai trò quan trọng trong lĩnh vực điện, dầu khí, than, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoáng sản... nhằm gia tăng năng lực sản xuất mới.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo cung ứng điện phục vụ sản xuất và tiêu dùng, bao gồm: Điều tiết việc cung cấp than, sản xuất, nhập khẩu than phục vụ phát điện; khai thác hiệu quả các nguồn thuỷ điện; Đảm bảo các nhà máy nhiệt điện vận hành ổn định, kịp thời khắc phục sự cố nếu phát sinh; Khẩn trương hoàn tất đàm phán với chủ đầu tư các dự án điện gió, điện mặt trời đủ điều kiện theo quy định để có thể phát điện ngay lên hệ thống điện quốc gia; Tăng cường truyền thông về công tác tiết kiệm điện.
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án phát triển nguồn; trình Chính phủ chiến lược phát triển năng lượng sạch như hydrogen xanh, amoniac xanh; Khẩn trương xây dựng Kế hoạch triển khai Quy hoạch Điện 8 và Chiến lược phát triển ngành Điện; Hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Điện lực sửa đổi; Luật về năng lượng tái tạo và các văn bản hướng dẫn, đặc biệt là đối với các nội dung liên quan đến khung giá phát điện cho nhà máy điện mặt trời, điện gió, hợp đồng mua bán điện, cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế đặc thù trong đầu tư phát triển các dự án NLTT… hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, nhất là thủ tục pháp lý để sớm đưa các dự án điện (nhất là các dự án năng lượng tái tạo) đi vào vận hành thương mại;
- Chủ động xây dựng phương án điều tiết thị trường, đảm bảo cung ứng, phân phối xăng dầu và các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tạo các đơn hàng mới để tiêu thụ sản phẩm đầu ra, thúc đẩy sản xuất cho các doanh nghiệp: (i) Hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA, nhất là các Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA để đẩy mạnh XK, thông qua hướng dẫn áp dụng quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận xuất xứ ưu đãi để khai thác các cơ hội từ các Hiệp định; (ii) Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng, trước mắt với Israel và UAE. (iii) Mở rộng thị trường XK cho hàng hóa của Việt Nam thông qua công tác XTTM, công tác Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, phát triển TMĐT; (iv) Tổ chức kết nối giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, nhất là DN lớn toàn cầu, tham gia vào hệ thống phân phối ở nước ngoài.
Bốn là, tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác và phát triển thị trường trong nước: Tiếp tục thực hiện các biện pháp cân đối cung cầu, bình ổn thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, làm tiền đề triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy thương mại trong nước và các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ; Triển khai kịp thời và hiệu quả các chương trình kích cầu tiêu dùng trong nước; Đẩy mạnh các hoạt động kết nối cung cầu và xúc tiến thương mại thị trường trong nước; tăng cường áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa thông qua khuyến khích các hệ thống phân phối hiện đại, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển mạnh thương mại điện tử; Tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình, Đề án về phát triển thị trường trong nước…
Năm là, triển khải đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực phát triển công thương địa phương, xúc tiến thương mại, phòng vệ thương mại, quản lý cạnh tranh, quản lý thị trường và các mặt hoạt động khác, đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Tăng cường phối hợp với ngành công thương địa phương để triển khai các chương trình, Kế hoạch, cũng như những hỗ trợ liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu, phát triển thị trường trong nước, xúc tiến thương mại, công tác khuyến công...
Sáu là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tiếp tục đổi mới lề lối, phương thức làm việc, đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; chủ động phối hợp xử lý công việc gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong toàn hệ thống./.
[1] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,54%; 7,79%; 4,5%; 4,95%; 8,74%; 6,63%; 5,30%; 8,59%; 8,22%; 2,26%; 8,15%; 8,36%; 0,44%.
[2] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 11,96%; 8,3%; 4,95%; 5,73%; 8,63%; 9,77%; 8,62%; 10,73%; 9,64%; 3,04%; 10,84%; 9,49%; 0,37%.
[3] Than cấp cho: điện khoảng 25,34 triệu tấn, đạt 54,70% kế hoạch năm, bằng 118,16% so với cùng kỳ năm 2022; xi măng khoảng 0,94 triệu tấn, đạt 53,98% kế hoạch năm, bằng 71,93% so với cùng kỳ năm 2022; phân bón, hóa chất khoảng 1,13 triệu tấn, đạt 45,08% kế hoạch năm, bằng 111,92% so với cùng kỳ năm 2022; Hộ khác khoảng 3,36 triệu tấn, đạt 74,24% kế hoạch năm, bằng 70,64% so với cùng kỳ năm 2022.
[4] Bộ Công Thương đã có văn bản gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 1817/BCT-DKT ngày 30/3/2023 gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị quan tâm và tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị ngành Than trong việc cấp Giấy phép hoạt động khoáng sản và Văn bản số số 2110/BCT-DKT ngày 11/4/2023 báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy phép hoạt động khoáng sản để đảm bảo tiến độ thực hiện các đề án/dự án theo Quy hoạch và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản số 3719/VPCP-CN ngày 24/5/2023 của Văn phòng Chính phủ.
[5] Tỷ lệ giải ngân thấp vì vướng mắc tại một số dự án lớn. Cụ thể: DA đầu tư trong Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh chưa được giao đất để triển khai đầu tư; Các dự án sử dụng vốn nước ngoài chậm tiến độ do vướng mắc trong quá trình lập KH lựa chọn nhà thầu thẩm định giá thiết bị; DA Chương trình phục hồi và phát triển KTXH chưa hoàn thành thủ tục thẩm định tại cơ quan chuyên môn về xây dựng nên chưa đủ điều kiện trình Bộ Công Thương phê duyệt dự án để giao vốn.
[6] Hai nước đang thúc đẩy hoàn thành rà soát pháp lý và ký Hiệp định VIFTA dự kiến trong năm 2023 nhân kỷ niệm 30 năm ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao
[7] Số liệu tính đến ngày 23 tháng 6 năm 2023.
[8] Công điện số 383/CĐ-BCT ngày 20/01/2023 về việc tăng cường giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong kinh doanh xăng dầu; Công văn số 78/TCQLTT-THKHTC ngày 16/01/2022 về việc tổ chức trực và báo cáo tình hình trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023; Công văn số 77/TCQLTT-CNV ngày 15/01/2023 về việc giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong kinh doanh xăng dầu; Công văn số 144/TCQLTT-CNV ngày 01/2/2023 về việc triển khai Kế hoạch đấu tranh, phòng chống hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn 2021-2025 năm 2023; Công văn số 360/TCQLTT-CNV ngày 27/02/2023 về tăng cường kiểm tra, kiểm soát gia cầm, sản phẩm gia cầm; Công văn số 361/TCQLTT-CNV ngày 27/02/2023 về triển khai công tác hậu kiểm an toàn thực phẩm năm 2023; Công văn số 604/TCQLTT-CNV ngày 31/3/2023 triển khai Tháng hành động vì ATTP năm 2023…
[9] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,54%; 7,79%; 4,5%; 4,95%; 8,74%; 6,63%; 5,30%; 8,59%; 8,22%; 2,26%; 8,15%; 8,36%; 0,44%.
[10] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 11,96%; 8,3%; 4,95%; 5,73%; 8,63%; 9,77%; 8,62%; 10,73%; 9,64%; 3,04%; 10,84%; 9,49%; 0,37%.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập