DỰ BÁO 5 MẶT HÀNG CÓ TRIỂN VỌNG XUẤT
KHẨU TỐT SANG THỊ TRƯỜNG EU THÔNG QUA HIỆP ĐỊNH EVFTA
I. Tổng
quan
Theo nghiên cứu của Bộ KH-ĐT, EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của VN
sang EU tăng thêm khoảng 20% vào năm 2020, 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm
2030 so với không có Hiệp định. Căn cứ vào năng lực sản xuất các ngành hàng chủ
lực của Việt Nam và cam kết giảm thuế của EU trong EVFTA, dự báo top 5 các sản
phẩm xuất khẩu chủ lực có cơ hội tăng trưởng mạnh nhờ EVFTA là thủy sản, rau quả, đồ gỗ, giầy dép và dệt
may.
Đây là 5 ngành hàng Việt Nam có thế mạnh về sản xuất và được EU cam kết
giảm thuế. Tuy nhiên, muốn tăng trưởng, mở rộng thị phần xuất khẩu tại EU, các
doanh nghiệp và cơ quan quản lý cần chú trọng vào những vấn đề sau :
1. Đảm bảo quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu
vào EU : các quy định về truy xuất nguồn gốc của các nước nhập khẩu hàng
hóa ngày càng chặt chẽ và khắt khe hơn, nguy cơ hàng Việt bị "mượn
danh" xuất sang EU cũng từng được các chuyên gia kinh tế cảnh báo. Điều
này gây ra nhiều hệ luỵ khiến hàng hoá Việt xuất vào EU có thể bị áp thuế chống
bán phá giá cao. Do đó, các doanh nghiệp cần chú trọng vào các vấn đề đảm
bảo quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu vào EU ;
2. Hết sức chú trọng vấn đề an toàn, vệ
sinh thực phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn
và quy trình quản lý do EU quy định ;
3. Coi trọng trách nhiệm xã hội, minh
bạch hóa thông tin về lao động, môi trường sản xuất ;
4. Đối với hàng thủy sản ngoài những lưu
ý trên cần hết sức tuân thủ các quy tắc IUU về chống đánh bắt cá bất hợp pháp,
không khai báo và không đăng ký.
EVFTA sẽ gỡ
bỏ ngay 85,6% số dòng thuế, tương đương với 70,3% kim ngạch hàng hóa Việt Nam
xuất khẩu sang EU. Lộ trình cụ thể như sau :
II. Dự báo các mặt hàng có triển vọng
tăng khá khi EVFTA có hiệu lực như sau :
1. Ngành hàng thủy sản ( HS 03)
Thủy sản Việt Nam sẽ có cơ hội mở
rộng thị trường xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ chưa có
FTA với EU như Ấn Độ, Thái Lan, Băngladet, Indonesia; thu hút đầu tư nước
ngoài, hiện đại hóa công nghệ chế biến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
EU đang là thị trường xuất khẩu thủy
sản đứng thứ hai của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 17% tổng giá trị xuất khẩu thủy
sản. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, riêng sản phẩm tôm
sang EU chiếm 22% tỷ trọng, cá tra chiếm 11% và 30-35% tỷ trọng các mặt hàng
hải sản khác.
Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ ba
mặt hàng này vào EU trong số các nước đang phát triển và tăng nhẹ từ năm 2016
tới nay. Năm 2016 trị giá xuất mặt hàng này đạt 683 triệu euro, chiếm 3,42%,
đến năm 2018 tăng lên đạt 761 triệu euro, chiếm 3,62% nhập khẩu mặt hàng này
của EU từ các nước ngoài EU.
Từ nhiều năm nay, chỉ số tiêu dùng
thủy sản tại thị trường EU tăng cao hơn hẳn so với thịt, do người tiêu dùng có
xu hướng chuyển sang ăn thủy sản nhiều hơn trong bữa ăn hàng ngày. Tại thị
trường EU, siêu thị bán lẻ là kênh chính, chiếm thị phần lớn nhất trong khâu
phân phối các sản phẩm thủy sản. Người tiêu dùng rất coi trọng thông tin nhãn
mác sản phẩm, bao bì, chất lượng... Phần lớn (khoảng 70%) thủy sản là dùng tại
nhà, phần còn lại sử dụng tại nhà hàng.
EVFTA sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực đối
với tôm. Sản phẩm cá tra hiện đang chịu mức thuế 9% sẽ được giảm về 0% với lộ
trình 3 năm.
Khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, các sản phẩm hải sản
(hàu, điệp, mực..) sẽ được giảm thuế nhập khẩu ngay về 0% từ mức 20%. Các sản
phẩm mực, bạch tuộc đông lạnh hiện đang chịu có mức thuế 6-8% sẽ giảm ngay về
0%, cá cờ kiếm từ 7,5% về 0%.
Với ưu đãi về thuế quan so với các nước chưa có FTA,
ngành thủy sản Việt Nam kỳ vọng sẽ tăng trưởng khá trong những năm tới đây. Tuy
nhiên để đạt mục tiêu tăng trưởng thì các
Doanh nghiệp thủy sản cần đặc biệt chú trọng thực hiện và đáp ứng các
quy định, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, các vấn đề liên quan đến phát
triển bền vững, tuân thủ quy định về IUU.
Các doanh
nghiệp cần tăng cường hợp tác, chú trọng liên kết chuỗi để nâng cao năng suất,
chất lượng, kiểm soát tốt an toàn vệ sinh thực phẩm; Cần xây dựng và phát triển thương hiệu tập thể, kiểm soát chặt chẽ các
hoạt động nuôi, chế biến và phân phối. Đồng thời, áp dụng công nghệ tự động
hóa, sẽ giúp kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc, cần chủ động
tìm hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài, đổi mới công nghệ, đầu tư dây
chuyền chế biến sâu, tăng giá trị cho sản phẩm, tham gia vào chuỗi cung ứng
toàn cầu.
2. Ngành Rau quả ( HS 08)
EU cam kết mở cửa rất mạnh cho rau quả Việt Nam trong
EVFTA bằng việc xóa bỏ ngay 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế
phẩm từ rau quả khi Hiệp định có hiệu lực, trong đó có nhiều sản phẩm là thế
mạnh của Việt Nam như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa…; 24 dòng thuế
(chiếm 4,4%) chuyển thành “phí thâm nhập thị trường ” (entry price), gồm nhóm
dưa chuột tươi và ướp lạnh, chanh…; 08 dòng thuế chuyển sang chế độ hạn ngạch,
chủ yếu ở một số sản phẩm trong nhóm nấm chi agaricus, ngô ngọt…; và 01 dòng
thuế duy trì thuế nhập khẩu.
Phần lớn các dòng thuế EU cam kết xóa bỏ ngay hiện đều
đang có mức thuế MFN trung bình là trên 10%, cá biệt có những sản phẩm rau quả
đang chịu thuế trên 20%.
Như vậy, mức cam kết này của EU sẽ tạo ra lợi thế lớn
về giá cho rau quả Việt Nam, đặc biệt trong cạnh tranh nhập khẩu vào EU với các
nước có cùng ngành hàng về quả chưa có FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc,
Malaysai, Indonesia,...
Với lộ trình loại bỏ thuế tương đối dài áp dụng cho
phần lớn các sản phẩm rau quả, EVFTA cho người sản xuất, kinh doanh rau quả
Việt Nam đủ thời gian thích ứng với việc không còn hàng rào thuế.
Sản phẩm thuộc mã số HS 08 của Việt Nam xuất sang EU tăng đều qua các
năm. Từ 195,7 triệu euro năm 2010, tăng lên 808,9 triệu euro năm 2018, chiếm
3,7% nhập khẩu của EU mặt hàng này từ các nước đang phát triển, cao hơn các
nước có cùng mặt hàng cạnh tranh như Trung quốc, Thái lan, Ấn độ. Tốc độ tăng
trưởng bình quân khoảng 30% kể từ năm 2013- 2017, tuy năm 2018 có giảm nhẹ
khoảng 7% so với 2017.
Rào cản:
EU là thị trường xuất khẩu lớn với những yêu cầu, tiêu
chuẩn cao. Trong khi đó, quá trình sản xuất, đặc biệt là bảo quản sau thu hoạch
các sản phẩm nông sản nói chung, mặt hàng rau quả nói riêng của Việt Nam còn
nhiều bất cập. Hệ thống sản xuất vẫn tương đối manh mún, khó kiểm soát, chưa đủ
điều kiện để đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra. Hiện sản xuất rau quả của Việt
Nam áp dụng theo tiêu chuẩn VietGap đã làm tương đối tốt ở khâu gieo trồng, sản
xuất. Tuy nhiên, để mở rộng thị trường xuát khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam
phải áp dụng GlobalGap hoặc EuroGap.
Hiện rau quả tươi Việt Nam chủ yếu bán trong các cửa
hàng nhỏ lẻ Châu Á, chưa có mặt trong các siêu thị lớn. Như vậy có thể thấy, việc
mở và giữ được thị trường cho từng loại rau quả tại thị trường EU là không hề
đơn giản.
Rau quả Việt Nam từ sản phẩm thứ yếu, dần vươn lên
chiếm vị trí cao trong bảng kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu nông sản. Nhiều
sản phẩm rau quả của Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn. Nhu cầu thị trường
lúc nào cũng rộng mở, từ bình dân đến cao cấp, từ dễ tính đến khắt khe. Với thị
trường EU, cần xác định phải luôn đáp ứng được yêu cầu ở mức độ gần như khắt
khe nhất
Việc
đáp ứng các quy tắc xuất xứ hay vượt qua được các rào cản kỹ thuật, kiểm dịch
động thực vật là các vấn đề đáng quan ngại đối với nhiều doanh nghiệp. GlobalGap hiện là
tiêu chuẩn tối thiểu để các sản phẩm vào được các siêu thị ở EU, vì thế DN Việt
phải đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn này. Đồng thời, nên từng bước phát triển sản
phẩm hữu cơ vì ngày càng nhiều người tiêu dùng EU thích các sản phẩm thực phẩm
được sản xuất và chế biến bằng phương pháp tự nhiên.
Cụ thể, EU đã đặt ra mức dư lượng tối
đa (MRLs) đối với thuốc trừ sâu trong và trên thực phẩm.Việc tuân thủ nghiêm
ngặt các MRLs và ngăn ngừa vi khuẩn lây nhiễm là những điều kiện tiên quyết để
vào thị trường châu Âu.
Đối với nhóm rau củ và rau quả tươi cần phải có sự
liên kết chặt chẽ hơn giữa nhà XK với người sản xuất đảm bảo nguyên liệu đạt
chuẩn VSATTP của EU; Cần thiết phải triển khai hệ thống truy nguyên liệu XK và
vùng sản xuất phải đạt chuẩn VietGAP.
3. Đồ gỗ nội thất ( HS94)
Các nước thuộc EVFTA là khu vực có tiềm năng lâm
nghiệp lớn nhất thế giới như diện tích rừng 520 triệu ha, tổng sản lượng gỗ
khai thác của EU là 518,3 triệu m3, tổng giá trị tiêu dùng đồ gỗ của EU đạt
khoảng 95 tỷ USD, công nghệ và thiết bị chế biến gỗ của EU đứng hàng đầu với
các thiết bị hiện đại nhất. Việt Nam ký kết Hiệp định EVFTA là cơ hội vàng cho
doanh nghiệp gỗ Việt phát triển sản xuất kinh doanh với tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững.
Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ, đồ nội thất
( HS 94) vào EU năm 2018 là 1,1 tỷ euro trong khi dung lượng thị trường này
khoảng 27,1 tỉ euro trong năm 2018,
chiếm 3,85% nhập khẩu từ các nước ngoài EU nên tiềm năng phát triển là
rất lớn khi EVFTA được đưa vào thực thi.
EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam và
là thị trường quan trọng của ngành gỗ và sản phẩm gỗ Việt. Ở chiều ngược lại,
EU cũng là thị trường chính cung cấp nguồn gỗ nguyên liệu cho Việt Nam. Ngành
chế biến gỗ sẽ được hưởng thuế suất 0% cho ít nhất 90 sản phẩm gỗ xuất khẩu từ
Việt Nam, đồng thời sẽ được giảm giá máy móc, thiết bị ngành gỗ nhập khẩu từ
EU. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập
khẩu từ EU. Hiệp định EVFTA cũng sẽ tạo ra môi trường đầu tư của Việt Nam thông
thoáng, thuận lợi hơn, triển vọng xuất khẩu hấp dẫn hơn sẽ thu hút đầu tư FDI
từ EU và Việt Nam nhiều hơn…
Bốn mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu quan trọng nhất của Việt
Nam vào EU gồm: Đồ gỗ ngoài trời, ghế gỗ, đồ nội thất phòng ngủ và đồ nội thất
văn phòng.
Trong khối EU, các quốc gia quan trọng nhất đối với
thương mại gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam là Anh, Đức, Pháp. Kim ngạch từ 3 thị
trường này chiếm 2/3 trong tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và sản phẩm gỗ của
Việt Nam vào EU.
EU không chỉ quan trọng đối với Việt Nam về thị trường
tiêu thụ và sản phẩm, mà còn là một trong những nguồn cung nguyên liệu. Gỗ nhập
khẩu từ EU vào Việt Nam được sử dụng để chế biến phục vụ xuất khẩu và cả thị
trường nội địa. Các mặt hàng gỗ Việt Nam nhập khẩu chính: Gỗ tròn, gỗ xẻ, vơ
nia và gỗ dán. Hiện kim ngạch gỗ nguyên liệu từ EU chiếm khoảng 25% tổng kim
ngạch và sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào EU.
Dự báo nhập khẩu nguyên liệu gỗ từ EU sẽ tăng nhiều
hơn trong thời gian tới bởi nguyên liệu nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong
ngành chế biến gỗ Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất ngày càng tăng phục
vụ thị trường trong và ngoài nước.
Xuất khẩu mặt hàng này ( HS 94) của việt nam sang Eu
tăng nhẹ trong những năm gần đây, với trị giá năm 2014 là 815,4 triệu và và duy
trì trị giá XK từ 1-1,1tyr euro/năm
trong giai đoạn 2015- 2018, chiếm khoảng 4% thị phần nhập khẩu cuả EU từ
các nước ngoài EU.
Năm 2018, Việt nam xuất khẩu sang EU đạt 1,107 tỷ
euro, chiếm 4,1 % thị phần nhập khẩu của Eu từ các nước ngoài EU , đứng thứ
4 sau Trung quốc ( 63%), Thổ (4,3% ) ,
Mỹ ( 4,2%) .
Thị trường EU còn nhiều tiềm năng cho sản phẩm này của
Việt nam nhưng cũng phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của Trung quốc về giá
thành, mẫu mã.
VPA/FLEGT - Hiệp định bổ
sung cần thiết cho EVFTA
Thị trường EU đòi hỏi rất cao về tính hợp pháp của
nguồn gốc nguyên liệu. VPA/FLEGT ( mới kết luận với Việt nam và Indonessia) -
Hiệp định Thương mại song phương được ký kết giữa EU với quốc gia đối tác xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ - nhằm đảm bảo gỗ và sản phẩm gỗ ở tất cả các nguồn,
được chế biến và xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường các nước thành viên EU
là hợp pháp. Hiệp định này bổ sung cho Hiệp định FTA giữa EU và Việt Nam. Việc
thực hiện VPA/FLEGT sẽ góp phần mở rộng thị trường EU và các thị trường xuất
khẩu khác, tăng cường sự phát triển bền vững của ngành lâm nghiệp và công
nghiệp gỗ của Việt Nam;
4. Da giày
Xuất khẩu giày dép sang EU tăng đều hàng năm. Năm 2011 đạt 1,84 tỷ euro chiếm 12% nhập khẩu của EU từ các nước ngoài
EU và tăng lên 4,19 tỷ trong năm 2017, chiếm 20% . Số liệu 2018 của Eurostat
cho thấy Xuất khẩu của Việt Nam sang EU đứng thứ 2, chỉ sau Trung quốc với trị
giá 3,9 tỷ euro, chiếm 19% tỷ trọng NK từ ngoài EU, tuy giảm nhẹ so với năm
2017.
Trung Quốc hiện
là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của da giày Việt Nam trên thị trường thế giới.
EVFTA sau khi có hiệu lực, sẽ giúp sản phẩm da giày của Việt Nam hưởng chênh
lệch thuế từ 3,5- 4,2% so với Trung Quốc khi xuất khẩu vào EU, tạo lợi thế cạnh
tranh rất lớn. Thuế suất giảm về 0%, đặc biệt là mức thuế sản phẩm chủ lực giày
thể thao, chiếm tới 2/3 tổng lượng giày XK vào EU sẽ giảm ngay chứ không chịu
mức bảo hộ 7 năm như giày da. Tương tự, mặt hàng túi xách không bảo hộ nên thuế
suất cũng sẽ về 0%. Mặt khác, quy tắc xuất xứ quy định trong EVFTA không khác
nhiều so với GSP, do vậy doanh nghiệp da giày trong nước hoàn toàn có thể đáp
ứng được. Chắc chắn dòng đơn hàng dịch chuyển về Việt Nam sẽ rất nhiều, quan
trọng là doanh nghiệp tiếp nhận thế nào.
Khi EVFTA có hiệu lực, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu
tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu để hưởng ưu đãi theo xuất xứ. Nhờ đó, Việt Nam có thể cải thiện được nguồn cung nguyên phụ liệu
trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm.
Khó khăn:
Điều đầu tiên phải kể đến là tỷ lệ sản xuất gia công của
ngành da giày Việt Nam còn cao, chiếm tới 70%, nên lợi nhuận thấp và hạn chế sự
năng động của doanh nghiệp.
Mặt khác, các rào cản kỹ thuật áp đặt từ phía EU cùng với
các yêu cầu về trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và tuân thủ các thủ tục để
được hưởng lợi thuế FTA cũng làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
5. Dệt may:
Nhập khẩu hàng may mặc châu Âu
tăng từ 125 tỷ euro năm 2013 lên 165,8 tỷ euro năm 2018, với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 6,0% và dự
kiến sẽ tiếp tục tăng vừa phải trong những năm tới. Nhập khẩu từ các nước đang
phát triển đạt khoảng 100 tỷ euro, chiếm 64% tổng số nhập khẩu mặt hàng này của
EU.
EU là thị trường lớn thứ 2 của Viêt Nam với mức tăng trưởng
hàng năm 7% -10%, chỉ đứng sau Mỹ. Năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc sang EU đạt
1,38 tỷ euro, tăng lên 3,51 tỷ trong năm 2018 ( HS 61,62,63).
Trong năm 2017, thị phần nhập khẩu của Châu Âu đến từ Trung Quốc chiếm 22% hàng dệt kim và 26% hàng dệt may. Năm 2011, tỷ lệ này lần lượt đạt tới 29% và 37%, nhưng giảm dần sau đó. Bangladesh đã trở thành nhà cung cấp hàng may mặc lớn thứ hai cho châu Âu trong nhiều năm nay, cung cấp chi phí sản xuất thấp đặc biệt hấp dẫn đối với người mua châu Âu. Thuế suất là một yếu tố quan trọng để người mua cân nhắc khi lựa chọn nhà cung cấp hoặc quốc gia cung ứng. Một nhóm các quốc gia cung ứng hưởng mức thuế quan bằng 0 là các nước LDC. Trong khi Bangladesh dẫn đầu về xuất khẩu hàng may mặc sang châu Âu trong số các LDC, Campuchia và Myanmar đang tăng nhanh thị phần. Cả hai quốc gia hiện đang hưởng lợi từ sự gần gũi với Trung Quốc, nơi cung cấp hầu hết nguyên liệu, vì họ thiếu nguồn cung cấp bông địa phương và hầu như tất cả các nguyên liệu khác. Do đó, về lâu dài, cạnh tranh sẽ tăng lên với Trung Quốc, nơi có chuỗi cung ứng hoàn chỉnh. Bangladesh, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ cũng được hưởng lợi từ chuỗi cung ứng nội địa tiên tiến.
Các
nhà cung cấp hàng may mặc chính sang Châu Âu năm 2017
Trung
Quốc, Bangladesh và Thổ Nhĩ Kỳ cùng nhau
chiếm 44% sản lượng hàng may mặc của châu Âu. Các nhà cung cấp hàng đầu khác từ
các nước đang phát triển là Ấn Độ (4.2%), Campuchia (3.2%), Việt Nam (2,8%),
Pakistan (2,2%) và Morocco (2,1%).
Các
nguồn cung từ Đức chủ yếu là tái xuất hoặc các sản phẩm nhập khẩu từ các nước
đang phát triển vì Đức là một trung tâm thương mại quan trọng của châu Âu không
có nhiều địa phương sản xuất. Mặc dù nguồn cung của Ý có thể bao gồm một số sản
xuất trong nước, quốc gia này cũng tái xuất sản phẩm từ nước ngoài.
Châu Âu là thị trường tiềm
năng cho hàng may mặc từ các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói
riêng. Sản xuất của Châu Âu ngày càng giảm trong khi cầu tăng đặc biệt phân
khúc hàng chất lượng. Các nhà sản xuất ngoài EU cần thay đổi để đáp ứng với xu
thế “ tìm nguồn cung cấp gần” ở Châu âu hiện nay.
Tiềm năng xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường EU còn rất lớn. Với dân số 500 triệu người, hàng
năm, thị trường EU có nhu cầu nhập khẩu trên 100 tỷ USD hàng may mặc. Hiện thuế
suất xuất khẩu hàng dệt may sang EU đang bình quân là 9,6%, nhưng tới đây, khi
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực thì thuế suất sẽ
giảm dần về 0% (trong vòng 7 năm). Đây thực sự là cơ hội rất lớn đối với dệt
may Việt Nam
Khó khăn, Rào cản:
Dệt may Việt Nam phải cạnh
tranh quyết liệt với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ,
Ấn Độ, Campuchia. Cùng với đó, quy tắc xuất xứ từ vải trở đi đánh vào khâu yếu
của dệt may Việt Nam, khi Việt Nam phải nhập đến 80% vải cho may xuất khẩu,
trong đó khoảng 50% từ Trung Quốc, 18% từ Hàn Quốc, 15% từ Đài Loan.
Mặt khác, EU là thị trường
khó tính, có yêu cầu cao về chất lượng, với các quy định nghiêm ngặt về lao động,
môi trường (quy định REACH) mà không phải doanh nghiệp Việt Nam nào cũng có thể
đáp ứng được.
Ở chiều ngược lại,
EVFTA sẽ mở cửa cho hàng hóa của EU vào Việt Nam. Đây cũng là thách thức
bổ sung đối với ngành may mặc Việt Nam ở phân khúc khách hàng có thu nhập cao
nhưng lại tạo nhiều cơ hội hợp tác mới vì các doanh nghiệp EU có thế mạnh về
thiết kế thời trang, tài chính và phân phối nhưng lại rất thiếu công nhân lành
nghề mà ngành dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được.
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoNormal, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoNormal, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoNormal
{margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:8.0pt;margin-left:0cm;line-height:107%;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 h3
{margin-top:10.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:0cm;margin-left:0cm;margin-bottom:.0001pt;page-break-after:avoid;font-size:14.0pt;font-family:"Calibri Light",sans-serif;color:#5B9BD5;font-weight:bold;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoFootnoteText, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoFootnoteText, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoFootnoteText
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;font-size:10.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoHeader, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoHeader, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoHeader
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;tab-stops:center 234.0pt right 468.0pt;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoFooter, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoFooter, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoFooter
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;tab-stops:center 234.0pt right 468.0pt;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.MsoFootnoteReference
{vertical-align:super;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 a:link, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.MsoHyperlink
{color:#0563C1;text-decoration:underline;text-underline:single;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 a:visited, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.MsoHyperlinkFollowed
{color:#954F72;text-decoration:underline;text-underline:single;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p
{margin-right:0cm;margin-left:0cm;font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman",serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 pre
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;tab-stops:45.8pt 91.6pt 137.4pt 183.2pt 229.0pt 274.8pt 320.6pt 366.4pt 412.2pt 458.0pt 503.8pt 549.6pt 595.4pt 641.2pt 687.0pt 732.8pt;font-size:10.0pt;font-family:'Courier New';}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoAcetate, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoAcetate, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoAcetate
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;font-size:8.0pt;font-family:"Tahoma",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoListParagraph, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoListParagraph, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoListParagraph
{margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:8.0pt;margin-left:36.0pt;line-height:107%;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoListParagraphCxSpFirst, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoListParagraphCxSpFirst, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoListParagraphCxSpFirst
{margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:0cm;margin-left:36.0pt;margin-bottom:.0001pt;line-height:107%;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoListParagraphCxSpMiddle, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoListParagraphCxSpMiddle, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoListParagraphCxSpMiddle
{margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:0cm;margin-left:36.0pt;margin-bottom:.0001pt;line-height:107%;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.MsoListParagraphCxSpLast, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.MsoListParagraphCxSpLast, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.MsoListParagraphCxSpLast
{margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:8.0pt;margin-left:36.0pt;line-height:107%;font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.Heading3Char
{font-family:"Calibri Light",sans-serif;color:#5B9BD5;font-weight:bold;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.FootnoteTextChar
{;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.HTMLPreformattedChar
{font-family:'Courier New';}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.HeaderFooter, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.HeaderFooter, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.HeaderFooter
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;tab-stops:right 451.0pt;font-size:12.0pt;font-family:"Helvetica Neue",serif;color:black;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.Body, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.Body, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.Body
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman",serif;color:black;text-underline:black;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 p.BodyA, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 li.BodyA, .ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.BodyA
{margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman",serif;color:black;text-underline:black;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.HeaderChar
{;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.FooterChar
{;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 span.BalloonTextChar
{font-family:"Tahoma",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 .MsoChpDefault
{font-size:11.0pt;font-family:"Calibri",sans-serif;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 .MsoPapDefault
{margin-bottom:8.0pt;line-height:107%;}
@page
{;}
@page WordSection1
{size:21.0cm 842.0pt;margin:35.45pt 42.5pt 72.0pt 70.9pt;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 div.WordSection1
{page:WordSection1;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 ol
{margin-bottom:0cm;}
.ExternalClass6166866786284ED1A88FB58DE962CD49 ul
{margin-bottom:0cm;}