Chào mừng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Ngày 25/02/2023, Lãnh đạo Sở - Phó Giám đốc Nguyễn Trí Phương đã tham dự cuộc họp (Phiên 5) về Chuyển đồi số

Chủ nhật - 26/02/2023 19:46
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
Ngày 25/02/2023, Lãnh đạo Sở - Phó Giám đốc Nguyễn Trí Phương đã tham dự cuộc họp (Phiên 5) về Chuyển đồi số

http://sct.dongnai.gov.vn/t1/2023/h-hop-cds.jpg?t=1762423302


Tại cuộc họp đã nêu ra những ​nội dung trọng tâm như sau:

1- Báo cáo những nội dung trọng tâm về Kế hoạch của Uỷ ban quốc gia về chuyển đổi số năm 2023Năm Dữ liệu số quốc gia.​  

2- Chủ đề chung năm 2023dữ liệu số, là năm phát triển, kết nối, khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới. Vì vậy, các hoạt động trọng tâm của Ủy ban Quốc gia và Ban chỉ đạo chuyển đổi số các cấp đề nghị xoay quanh chủ đề này.

 

Cụ thể là 5 nhiệm vụ trọng tâm: (1) Phát triển dữ liệu mở, (2) Phát triển cơ sở dữ liệu, (3) Phát triển các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn quốc hoặc trong phạm vi mỗi địa phương; (4) Xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia, phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử dựa trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; (5) Nâng cao năng lực quản trị dữ liệu, an toàn, bảo mật dữ liệu.

 

Đối với nhiệm vụ xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia, phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử dựa tren cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư sẽ có một chuyên đề riêng do Bộ Công an trình bày.

 

Ở đây, xin nhấn mạnh thêm từ khóa nền tảng số, bởi để có dữ liệu, để dữ liệu có thể liên thông, kết nối liền mạch và để khai thác dữ liệu được dễ dàng thì cần phải có các nền tảng số được sử dụng thống nhất, xuyên suốt trong phạm vi quốc gia và trong phạm vi mỗi địa phương.

 

3- Mục tiêu chung năm 2023 là cơ bản hoàn thành mục tiêu đặt ra trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đến năm 2025.

 

Cơ bản hoàn thành có nghĩa là hoàn thành đa số mục tiêu đặt ra, còn mục tiêu nào chưa hoàn thành vì lý do khách quan, ví dụ xây dựng thể chế, ví dụ xếp hạng quốc tế, thì vẫn kiểm soát được tiến độ theo lộ trình đặt ra.

 

Năm 2024 là năm dùng để dự phòng trượt tiến độ và là năm tiến hành đánh giá, tổng kết, từ cấp cơ sở đến toàn quốc. Năm 2025 là năm trình phê duyệt Chiến lược quốc gia giai đoạn 20262030, tầm nhìn 2035.

4- Cách tiếp cận chung năm 2023 là Kế hoạch giao 32 chỉ tiêu quốc gia, đó cũng là 32 nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương. Đây là những nội dung đã rõ cách làm. Đồng thời, mỗi bộ, mỗi tỉnh được giao thêm 01 nội dung đặc thù. Nội dung đặc thù là nội dung đã rõ cách làm nhưng cần tiên phong làm nhanh, ra kết quả trước, để tạo cảm hứng, chia sẻ bài học kinh nghiệm cho các bộ, tỉnh khác tham khảo; hoặc là nội dung mới, chưa rõ cách làm, cần làm thí điểm để từ đó nhân rộng. Như vậy, cơ bản mỗi bộ, tỉnh có khoảng 32+1 nhiệm vụ năm 2023.

 

Trong 32 chỉ tiêu, có 08 nội dung về dữ liệu số, 09 nội dung về chính phủ số, 05 nội dung về kinh tế số, 06 nội dung về xã hội số và 04 nội dung về an toàn, an ninh mạng.

 

Mỗi Ủy viên UBQG cũng được giao chỉ đạo trực tiếp một nhiệm vụ trọng tâm, là những định hướng lớn, mang tính chiến lược, để thúc đẩy chuyển đổi số trên phạm vi toàn quốc.

 

Lưu ý thêm là trong 32 chỉ tiêu quốc gia, có thể có một số chỉ tiêu là chưa thực sự khả thi với điều kiện hiện có ở một số địa phương, ví dụ, một số địa phương vùng sâu, vùng xa, thì khó có thể đạt chỉ tiêu 50% người dân trưởng thành có tài khoản dịch vụ công trực tuyến, nhưng đề nghị chúng ta coi đây là chỉ tiêu phấn đấu để cùng nhau nỗ lực. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào 32 chỉ tiêu quốc gia năm 2023 để đặt ra chỉ tiêu cho bộ, ngành, địa phương mình, phù hợp với đặc thù của ngành, lĩnh vực, địa phương. Những địa phương thuận lợi hơn thì cố gắng vượt chỉ tiêu, để bù đắp cho những địa phương khó khăn, để chúng ta vẫn đạt được chỉ tiêu quốc gia đặt ra.

 

5- Dữ liệu mở của cơ quan nhà nước là dữ liệu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố rộng rãi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tự do sử dụng, tái sử dụng, chia sẻ. Dữ liệu mở sẽ tạo ra giá trị mới về kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ công, giúp Chính phủ thăng hạng trên bảng đánh giá về minh bạch thu hút đầu tư.

 

Về phát triển dữ liệu mở, theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, xếp hạng dữ liệu mở của Việt Nam năm 2022 đứng thứ 87/193 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với xếp hạng năm 2020, nhưng vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, mục tiêu của chúng ta là tối thiểu phải lọt vào nhóm 70 nước dẫn đầu vào năm 2024, tức là năm 2023 phải tiếp tục nỗ lực vượt bậc gấp mấy lần nữa.

 

Nhiệm vụ năm 2023100% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch về dữ liệu mở, bao gồm tối thiểu 3 nội dung (1) Danh mục dữ liệu mở, (2) Kế hoạch công bố dữ liệu mở của cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý và (3) Mức độ tối thiểu cần đạt được trong từng giai đoạn của kế hoạch. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương năm 2023 tiếp tục cung cấp hoặc cung cấp lần đầu dữ liệu mở theo kế hoạch.

 

Về cách làm và lộ trình, trong tháng 3, Bộ TT&TT sẽ công bố Sổ tay hướng dẫn phát triển dữ liệu mở, khai giảng khóa tập huấn trực tuyến về dữ liệu mở. Tháng 4 là Tháng Dữ liệu mở. Trong tháng 4, đề nghị tất cả các bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch về dữ liệu mở. Trong năm 2023, tốt nhất là trước tháng 8 năm 2023, tất cả các bộ, ngành, địa phương hoàn thành cung cấp lần đầu dữ liệu mở theo kế hoạch. Các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo kết quả và cách làm dữ liệu mở của Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh.

 

6- Cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước được phân thành 3 loại, lần lượt là: (1) Cơ sở dữ liệu quốc gia; (2) Cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương bao gồm: cơ sở dữ liệu dùng chung của bộ; cơ sở dữ liệu dùng chung của ngành; cơ sở dữ liệu dùng chung của địa phương; (3) Cơ sở dữ liệu khác trong nội bộ một hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước.

 

Danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia ưu tiên triển khai đã bước đầu được xác định, tuy nhiên, danh mục cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương thì đến nay chưa được xác định một cách đầy đủ.

 

Nhiệm vụ năm 2023100% bộ, ngành, địa phương ban hành danh mục cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý và kế hoạch, lộ trình cụ thể để xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục.

 

Về cách làm và lộ trình, đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin của các các bộ, ngành, địa phương chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng và trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành, cập nhật danh mục các cơ sở dữ liệu thuộc bộ, ngành, địa phương quản lý.

 

Danh mục cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương phải thể hiện được các nội dung sau: (1) Tên các cơ sở dữ liệu; (2) Mô tả mục đích, phạm vi, nội dung của từng cơ sở dữ liệu; (3) Cơ chế thu thập, cập nhật, nguồn dữ liệu được thu thập của từng cơ sở dữ liệu; (4) Liệt kê các hạng mục dữ liệu bao gồm: dữ liệu mở, dữ liệu được chia sẻ theo hình thức chia sẻ dữ liệu mặc định, dữ liệu được chia sẻ theo hình thức chia sẻ dữ liệu theo yêu cầu đặc thù của từng cơ sở dữ liệu tương ứng với từng đối tượng khai thác, sử dụng.

 

Tháng 5 là Tháng Cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Bộ TT&TT sẽ tổ chức các khóa tập huấn trực tuyến về phát triển cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Trong tháng 5, đề nghị tất cả các bộ ngành, địa phương ban hành danh mục cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý và kế hoạch, lộ trình cụ thể để xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục. Trên cơ sở đó, Bộ TT&TT sẽ tổng hợp, công bố phiên bản 1.0 Bản đồ dữ liệu Việt Nam.

 

Các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo kết quả và cách làm cơ sở dữ liệu của Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bảo hiểm Xã hội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.

 

7- Mỗi bộ, ngành, địa phương hiện nay có rất nhiều dữ liệu, nhưng lại không có dữ liệu, vì dữ liệu này nằm rải rác ở các phần mềm, phần cứng, hệ thống thông tin khác nhau, khi cần không kịp thời có ngay để sử dụng. Chiến lược Chính phủ số đã chỉ ra rằng mỗi bộ, ngành, địa phương cần xây dựng Nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp cấp bộ, cấp tỉnh nhằm lưu trữ tập trung, tổng hợp, phân tích, xử lý dữ liệu về phát triển kinh tế - xã hội từ các nguồn khác nhau, từ đó tạo ra thông tin mới, dịch vụ dữ liệu mới phục vụ Chính phủ số, hướng tới việc hình thành kho dữ liệu dùng chung cấp bộ, ngành, địa phương. Nhưng đến nay, vẫn chưa có bộ, tỉnh nào triển khai nhiệm vụ này một cách triệt để, có kết quả, trở thành mô hình tham khảo cho các bộ, tỉnh khác.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là trên 50% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch triển khai nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp cấp bộ, cấp tỉnh, có ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động.

 

Về cách làm và lộ trình, trong tháng 4, Bộ TT&TT sẽ ban hành văn bản hướng dẫn về mô hình kiến trúc, yêu cầu chức năng, tính năng kỹ thuật và bảo đảm an toàn, an ninh mạng đối với Nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp cấp bộ, cấp tỉnh. Tháng 6 là Tháng Phân tích, xử lý dữ liệu. Trong tháng 6, đề nghị tất cả các bộ ngành, địa phương công bố kế hoạch triển khai nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp cấp bộ, cấp tỉnh, trên cơ sở đó, hành động quyết liệt để thực hiện.

 

8- Quản trị dữ liệu là nhiệm vụ mang tính trung và dài hạn, thường xuyên, liên tục. Đây là vấn đề mới, nhưng có ý nghĩa chiến lược, quan trọng ở tầm quốc gia. Bộ TT&TT đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược dữ liệu quốc gia. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp hiện nay phần nhiều vẫn chưa quan tâm tới phát triển năng lực quản trị dữ liệu.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là 100% bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước ban hành kế hoạch hành động nâng cao năng lực phát triển và quản trị dữ liệu thuộc phạm vi quản lý.

 

Về cách làm và lộ trình, năng lực phát triển và quản trị dữ liệu là năng lực tổng thể về dữ liệu, bao gồm xây dựng, khai thác, sử dụng, phân tích, kết nối, chia sẻ, duy trì, quản lý chất lượng, kiểm soát, làm chủ và an toàn, bảo mật dữ liệu. Đây không chỉ là nâng cao năng lực của bộ, ngành, địa phương hay doanh nghiệp, mà còn là vấn đề nâng cao năng lực quốc gia. Trong Quý I, Bộ TT&TT sẽ ban hành văn bản hướng dẫn khung kế hoạch hành động nâng cao năng lực phát triển và quản trị dữ liệu. Tháng 7 Tháng Quản trị dữ liệu. Trong tháng 7, đề nghị tất cả các bộ ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước công bố kế hoạch hành động nâng cao năng lực quản trị dữ liệu.

9- Phát triển Nhân lực dữ liệu nhiệm vụ mang tính trung và dài hạn, thường xuyên, liên tục. Phát triển nhân lực dữ liệu gồm: (1) Phổ cập kỹ năng dữ liệu cho mọi người, (2) Tập huấn ngắn hạn kỹ năng dữ liệu cho cán bộ và (3) Đào tạo chính quy về dữ liệu ở bậc cao đẳng, đại học, sau đại học.

Nhiệm vụ năm 2023 là:

 

- Phổ cập kỹ năng dữ liệu và bảo vệ dữ liệu cá nhân cho người sử dụng Internet tại Việt Nam.

 

- 100% các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học và các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân đang hoạt động đào tạo các trình độ của giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học đã tiến hành rà soát các chương trình đào tạo để xem xét bổ sung các môn học về dữ liệu lớn, thiết kế, phân tích, xử lý dữ liệu phù hợp với đặc thù tương ứng của từng ngành, nghề vào chương trình đào tạo.

 

- Trên 50% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng, phổ cập kỹ năng số cơ bản.

 

Về cách làm và lộ trình, Bộ TT&TT đã triển khai Nền tảng học trực tuyến mở đại trà và sẽ tiếp tục cung cấp, cập nhật các khoá học trực tuyến về dữ liệu và kỹ năng số. Các bộ, ngành, địa phương có thể sử dụng Nền tảng trên để triển khai các hoạt động phổ cập, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng. Các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo kết quả và cách làm của Quảng Ninh, Bình Phước, Hải Phòng, Đà Nẵng. Tháng 8 là Tháng Nhân lực dữ liệu. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH và Bộ TT&TT phối hợp triển khai các nhiệm vụ phát triển nhân lực dữ liệu phục vụ chuyển đổi số quốc gia.

 

10- Kết nối, chia sẻ dữ liệu là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Dữ liệu trong cơ quan nhà nước được tổ chức thống nhất, được phân cấp quản lý theo trách nhiệm quản lý của cơ quan nhà nước. Dữ liệu, cơ sở dữ liệu trong nội bộ của cơ quan, đơn vị phải được tổ chức, lưu trữ tạo thuận lợi cho việc chia sẻ cho các cơ quan, đơn vị bên ngoài. Các cơ quan nhà nước không được yêu cầu cá nhân, tổ chức cung cấp lại dữ liệu mà cơ quan đó đang quản lý hoặc dữ liệu đó được cơ quan nhà nước khác sẵn sàng chia sẻ và đáp ứng được yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu cung cấp dữ liệu phục vụ cập nhật hoặc sử dụng cho mục đích xác minh, thẩm tra dữ liệu. Quy định của pháp luật là đã tường minh.

 

Nhiệm vụ năm 2023100% bộ, ngành, địa phương cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu trên nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu (NDXP/LGSP).

 

Về cách làm và lộ trình, đây là nhiệm vụ đã rõ về nội hàm và cách làm. Thời gian qua, dưới sự điều phối của Bộ TT&TT, các cơ quan nhà nước đã triển khai, có những kết quả đột phá. Tuy nhiên, các vấn đề mới sẽ liên tục phát sinh theo thực tiễn, vậy nên đề nghị các bộ, ngành, địa phương khi có vấn đề gì về kết nối, chia sẻ dữ liệu thì ngay lập tức phản ánh về Bộ TT&TT để cùng tìm giải pháp tháo gỡ. Tháng 10 là Tháng kết nối, chia sẻ dữ liệu.

 

Năm 2023 nỗ lực đưa kết nối, chia sẻ dữ liệu trở thành một thói quen của cơ quan nhà nước.

 

11- Dịch vụ công trực tuyến là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Trọng tâm năm 2023 là cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình có chất lượng, được người dân sử dụng nhiều.

 

Năm 2022, Liên Hợp Quốc đánh giá xếp hạng dịch vụ công trực tuyến Việt Nam đứng thứ 76/193, tăng 5 bậc so với năm 2020. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ công trực tuyến vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp, chưa ngang bằng được với các nước dẫn đầu trong khu vực. Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ công trực tuyến để người dân sử dụng nhiều hơn, người dân có thể thực thiện thủ tục hành chính từ nhà hoặc từ bất cứ nơi nào mà không cần phải hiện diện ở cơ quan chức năng.

 

Nhiệm vụ năm 2023:

 

- Trên 80% bộ, ngành, địa phương triển khai chức năng kho dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh để người dân, doanh nghiệp chỉ phải cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Nội dung này Bộ TT&TT đã có văn bản 1552 ngày 26/4/2022 hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và cách làm.

 

- 100% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch hành động nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

 

- 100% bộ, ngành, địa phương hoàn thành triển khai hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh trên cơ sở hợp nhất cổng dịch vụ công và hệ thống một cửa điện tử.

 

- 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình trên 50%.

 

- Trên 50% người dân trưởng thành có tài khoản sử dụng dịch vụ công trực tuyến. 100% người dân và doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ trực tuyến thì được định danh và xác thực thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.

 

Về cách làm và lộ trình, thực tế cho thấy đến trên 70% thủ tục hành chính có thể đưa lên dịch vụ công trực tuyến toàn trình, ví dụ Đà Nẵng là 95%.

 

 

 

 

Tám giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ công trực tuyến là:

 

(1) Chủ tịch UBND tỉnh ban hành văn bản giao chỉ tiêu tỷ lệ hồ sơ trực tuyến tới người đứng đầu từng Sở, ngành, quận, huyện trên địa bàn. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Hòa Bình.

 

(2) Chủ tịch UBND tỉnh ban hành văn bản chỉ đạo chuẩn hóa và nâng cao trải nghiệm người dùng để cải tiến chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Đà Nẵng.

 

(3) Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành chính sách giảm phí, lệ phí để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Chính sách này do TP. Hồ Chí Minh tiên phong, đến nay, đã có khoảng 8 tỉnh, thành phố cũng triển khai thực hiện. Các địa phương khác có thể tham khảo.

 

(4) Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành chính sách giảm thời gian xử lý hồ sơ trực tuyến để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Đà Nẵng.

 

(5) UBND tỉnh chỉ đạo triển khai thí điểm một số dịch vụ không tiếp nhận bản giấy, một số ngày không tiếp nhận bản giấy. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Hải Phòng.

 

(6) UBND chỉ đạo triển khai Trợ lý ảo hướng dẫn, hỗ trợ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Đà Nẵng.

 

(7) UBND chỉ đạo Tổ công nghệ số cộng đồng đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm này của Bình Phước.  

 

(8) Sáng kiến khác mới, đặc thù năm 2023 rất mong được các địa phương giúp chia sẻ để chúng ta cùng tham khảo, học hỏi lẫn nhau.

 

Mục tiêu nêu trên là rất cao, rất thách thức. Nhưng dịch vụ công trực tuyến là chỉ số quan trọng nhất trong xếp hạng chính phủ điện tử, chính phủ số của Liên Hiệp Quốc, vì vậy, Việt Nam muốn nâng hạng quốc gia thì cần phải có kết quả đột phá hơn nữa đối với chất lượng dịch vụ công trực tuyến và số lượng người dân sử dụng, hài lòng với dịch vụ công trực tuyến, không có cách nào khác.

 

12- Trợ lý ảo là một hình thức ứng dụng trí tuệ nhân tạo giúp công chức, viên chức nhà nước trong thực thi công vụ. Trước đây, chỉ có cán bộ lãnh đạo, quản lý mới có cán bộ giúp việc bên dưới, thì với trợ lý ảo, mỗi chuyên viên có thể có một trợ lý giúp việc cho mình. Trợ lý ảo, dựa trên dữ liệu lớn, với cây tri thức được chuẩn hoá và phát triển từng bước, có thể hỗ trợ rất nhiều cho công chức, viên chức, đặc biệt là những người mới, chưa có nhiều kinh nghiệm làm việc, có thể kế thừa được tri thức của những người đã làm việc trước đó.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là trên 30% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch triển khai trợ lý ảo phục vụ hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức và phục vụ người dân.

 

Về cách làm và lộ trình, đây là một nội dung mới, các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo cách làm của Toà án Nhân dân tối cao với trợ lý ảo hỗ trợ thẩm phán hoặc của Bộ Thông tin và Truyền thông với trợ lý ảo hỗ trợ về an toàn thông tin mạng. Đề nghị một số bộ, ngành, địa phương tiên phong triển khai, để từ đó, có thêm các mô hình thực tiễn để các bộ, ngành, địa phương khác tham khảo.  

 

13- Giám sát trực tuyến là việc cơ quan quản lý kết nối với hệ thống thông tin của đối tượng quản lý để thu thập tự động dữ liệu theo quy định của pháp luật để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.

 

Đây là một sự chuyển dịch quan trọng trong phương thức thực hiện quản lý nhà nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, đó là thay đổi phương thức giám sát từ giám sát trực tiếp, dựa trên báo cáo giấy là chính, sang giám sát trực tuyến, dựa trên dữ liệu sinh ra từ các hệ thống thông tin là chính.

 

Đây là cơ sở quan trọng để ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là trên 30% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch triển khai kết nối với hệ thống thông tin của đối tượng quản lý để thu thập dữ liệu trực tuyến phục vụ công tác quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.

 

Về cách làm và lộ trình, đây là một nội dung mới, các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo cách làm của Bộ Thông tin và Truyền thông đối với một số hoạt động giám sát trực tuyến đã triển khai hiệu quả.  Đề nghị một số bộ, ngành, địa phương tiên phong triển khai, để từ đó, có thêm các mô hình thực tiễn để các bộ, ngành, địa phương khác tham khảo. Đồng thời, từ thực tiễn triển khai, có đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành để thực hiện giám sát trực tuyến.

 

14- Kiểm tra trực tuyến là việc cơ quan quản lý thực hiện kiểm tra đối tượng quản lý bằng hình thức trực tuyến thay vì trực tiếp.

 

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra mục tiêu rất cao là đến năm 2025 thì 50% hoạt động kiểm tra cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, đến nay, sau thời gian đại dịch Covid-19, thì hoạt động kiểm tra trực tuyến gần như không được thực hiện nữa.

 

Nhiệm vụ năm 2023 trên 10% hoạt động kiểm tra hành chính định kỳ của cơ quan quản lý nhà nước đối với đối tượng quản lý được thực hiện trực tuyến thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý, tuân thủ quy định của pháp luật.

 

Về cách làm và lộ trình, đây là một nội dung mới, các bộ, ngành, địa phương có thể tham khảo cách làm của Bộ Thông tin và Truyền thông đối với một số hoạt động giám sát trực tuyến đã triển khai hiệu quả. 

 

Đề nghị một số bộ, ngành, địa phương tiên phong triển khai, để từ đó, có thêm các mô hình thực tiễn để các bộ, ngành, địa phương khác tham khảo.

 

Đồng thời, từ thực tiễn triển khai, có đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành để thực hiện giám sát trực tuyến.

 

15- Kinh tế số lấy phát triển doanh nghiệp số làm trung tâm, gồm doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp nền tảng số và doanh nghiệp số trong các ngành, lĩnh vực. Năm 2023 là năm trọn vẹn đầu tiên thực thi Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là 100% bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước ban hành và tổ chức triển khai kế hoạch phát triển kinh tế số và xã hội số thuộc phạm vi quản lý; 100% bộ, ngành, địa phương ban hành và tổ chức triển khai kế hoạch hành động thúc đẩy chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt trong các cơ sở giáo dục, y tế thuộc phạm vi quản lý; tỷ trọng kinh tế số trong GDP trên 16%; tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ trên 8,5%.

 

Về cách làm và lộ trình, Bộ TT&TT đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản hướng dẫn triển khai. Trong tháng 3, Bộ TT&TT sẽ phối hợp với Bộ KH&ĐT ban hành văn bản hướng dẫn ước lượng tỷ trọng kinh tế số trong GRDP của một tỉnh. Lưu ý, đây chỉ là một cách ước lượng để đo lường một cách tương đối sự phát triển qua các năm, còn phương pháp tính toán chính thức và cách thức công bố số liệu chính thức sẽ do Bộ KH&ĐT nghiên cứu, công bố và hướng dẫn sau.

 

16- Xã hội số lấy phát triển công dân số làm trung tâm, gồm tám thành phần cơ bản, lần lượt là, (1) mỗi hộ gia đình một đường cáp quang băng rộng, (2) mỗi người dân trưởng thành có một điện thoại thông minh, (3) một tài khoản định danh điện tử, (4) một chữ ký số cá nhân, (5) một tài khoản thanh toán số, (6) một tài khoản dịch vụ công trực tuyến, (7) kỹ năng số cơ bản để sử dụng các dịch vụ số và (8) kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin mạng cơ bản để tự bảo vệ mình trước các nguy cơ, rủi ro trên môi trường số.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là các bộ, ngành, địa phương thúc đẩy tám thành phần cơ bản của xã hội số càng quyết liệt càng tốt, đẩy các chỉ số càng lên cao càng tốt, phù hợp với thực tiễn và đặc thù của địa phương mình.

 

Về cách làm và lộ trình, các việc trên đã tương đối rõ ràng. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai, sử dụng tổ công nghệ số cộng đồng đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người về việc này. Tỉnh xuất sắc là tỉnh có tất cả 8 chỉ số trên đều ở mức trên 50%.

 

17- An toàn hệ thống thông tin trong cơ quan nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Cả nước hiện nay có 3078 hệ thống thông tin, trong đó, mới chỉ 1846 (60%) hệ thống được xác định cấp độ an toàn, 201 (6,5%) hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn theo cấp độ.

 

Nhiệm vụ năm 2023 là trên 80% hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương được xác định cấp độ an toàn hệ thống thông tin, trên 30% hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu về bảo đảm an toàn theo cấp độ.

 

Về cách làm và lộ trình, trong tháng 3, Bộ TT&TT sẽ công bố Nền tảng hỗ trợ bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ để các bộ, ngành, địa phương có thể sử dụng, đồng thời, sẽ ưu tiên tập trung hỗ trợ các hệ thống thông tin quan trọng đáp ứng yêu cầu về bảo đảm an toàn theo cấp độ.

 

18- Tín nhiệm mạng do Bộ TT&TT gắn vào một trang thông tin điện tử trực tuyến, nhằm xác nhận thông tin về chủ quản trang thông tin điện tử, xác nhận sự tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và pháp luật về an toàn thông tin mạng cho trang thông tin điện tử, từ đó, giúp người sử dụng có thể dễ dàng nhận biết, phân biệt mức độ tin cậy của các trang thông tin điện tử, hạn chế rủi ro.

 

Nhiệm vụ năm 2023100% các trang, cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, thương mại điện tử, cung cấp dịch vụ số phổ biến trên mạng có thu thập dữ liệu cá nhân được đánh giá an toàn thông tin và gán nhãn tín nhiệm mạng.

 

Về cách làm và lộ trình, trong tháng 3, Bộ TT&TT sẽ tiến hành rà soát trên toàn quốc để lên danh sách các trang thông tin điện tử trong diện cần đánh giá, thông báo cho cơ quan chủ quản, tiến hành công bố rộng rãi danh sách các trang đã được đánh giá liên tục và định kỳ có các báo cáo thống kê về hiện trạng kèm danh sách các trang chưa được đánh giá tín nhiệm mạng.

 

19- Nhân lực chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước tiếp tục là bài toán không thể giải quyết trong ngắn hạn, vì vậy, Tổ công nghệ số cộng đồng tiếp tục là giải pháp trước mắt để huy động nhân lực trong xã hội cùng tham gia ngay vào thúc đẩy chuyển đổi số.

 

Trong năm 2022, 63/63 tỉnh, thành phố đã thành lập các Tổ CNSCĐ đến từng thôn, tổ dân phố, khu dân cư, khóm, ấp dân cư với hơn 63.000 Tổ CNSCĐ và trên 300.000 thành viên, trong đó 42/63 tỉnh, thành phố hoàn thành 100% đến cấp xã. Mỗi Tổ CNSCĐ có từ 05 đến 09 thành viên, trong đó Tổ trưởng các tổ dân phố, Công an khu vực, Ban chấp hành Đoàn Thanh niên (các chi đoàn, đoàn cơ sở) và Doanh nghiệp công nghệ số là lực lượng nòng cốt.

 

Năm 2023, đề nghị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo xây dựng và ban hành kế hoạch hoạt động năm 2023 của Tổ CNSCĐ phù hợp với đặc thù, nội dung chuyển đổi số trên địa bàn địa phương mình, ban hành trong tháng 3, để triển khai.

 

Năm 2023, đề nghị các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao năng lực tham mưu quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin và các Sở TT&TT. Năm 2023, Bộ Nội vụ, Bộ TT&TT sẽ phối hợp để đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách đặc thù cho cán bộ làm về công nghệ thông tin, chuyển đổi trong cơ quan nhà nước.

 

20- Phần mềm mà cơ quan nhà nước sử dụng thì ưu tiên lựa chọn phần mềm thương mại phổ biến hoặc phần mềm nguồn mở phổ biến được cung cấp bởi doanh nghiệp công nghệ số chuyên nghiệp, hạn chế sử dụng phần mềm nội bộ may đo theo nhu cầu riêng; chỉ sử dụng phần mềm nội bộ may đo theo nhu cầu riêng khi không có phần mềm phổ biến đáp ứng được yêu cầu. Bởi vì, sử dụng phần mềm nội bộ may đo theo nhu cầu riêng sẽ có rủi ro về tính toán chi phí, rủi ro khi cần chỉnh sửa, nâng cấp, cập nhật đáp ứng các yêu cầu về tích hợp, chia sẻ dữ liệu, rủi ro về an toàn, an ninh mạng. Bắt đầu từ năm 2023, Bộ TT&TT định kỳ hàng năm sẽ rà soát, cập nhật, ban hành danh mục phần mềm phổ biến đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cơ quan nhà nước.

 

21- Trung tâm dữ liệu, máy chủ mà cơ quan nhà nước sử dụng thì ưu tiên lựa chọn hình thức thuê dịch vụ điện toán đám mây đáp ứng được yêu cầu sử dụng trong cơ quan nhà nước do Bộ TT&TT đã đánh giá, công bố. Các địa phương có thể tham khảo kinh nghiệm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bộ Công an hiện đang được giao chủ trì xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia. Vì vậy, việc thuê dịch vụ của doanh nghiệp sẽ giúp cơ quan nhà nước linh hoạt hơn trong việc chuyển đổi các hệ thống về Trung tâm dữ liệu quốc gia sau này, tránh đầu tư lãng phí.

 

22- Đầu tư hay thuê dịch vụ thì dựa trên nguyên tắc cơ bản là cái gì phổ biến giống nhau, thay đổi nhanh thì thuê dịch vụ; cái gì cốt lõi đặc thù, thay đổi chậm thì đầu tư.

 

Trên cơ sở đó, kết hợp hài hòa giữa đầu tư và thuê dịch vụ, giữa vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp, để thực hiện chuyển đổi số.

 

Ví dụ, máy chủ phục vụ cung cấp dịch vụ công thì thuê, còn máy chủ phục vụ xử lý thông tin bí mật nhà nước thì đầu tư, hệ thống quản lý văn bản điện tử thì thuê, còn hệ thống thông tin xử lý hoá đơn điện tử của Bộ Tài chính thì đầu tư.

 

23- Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam chủ động tư vấn, nghiên cứu, phát triển sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số của các cơ quan, tổ chức và người dân, qua đó, tham gia giải quyết bài toán Việt Nam, chiếm lĩnh thị trường trong nước, đi ra thế giới.

 

Chuyển đổi số quốc gia đi đôi với phát triển tiềm lực công nghệ số Việt Nam. Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam là lực lượng chủ lực phát triển các hạ tầng, nền tảng, dịch vụ, tư vấn, cung cấp giải pháp chuyển đổi số; đi từ ứng dụng, đến sản phẩm, dịch vụ, đến nghiên cứu, phát triển làm chủ một số công nghệ lõi, từ đó, vươn ra thị trường toàn cầu.

 

Đây là vấn đề quan trọng quốc gia. Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam hãy chủ động phát hiện vấn đề, nêu ra vấn đề và đề xuất phương án giải quyết. Trường hợp cần thiết, đề xuất Uỷ ban Quốc gia tổ chức phiên họp chuyên đề để cho ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc.

 

24- Khi tổng hợp ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương, bộ phận thường trực thấy nổi lên 3 điểm như sau, xin được chia sẻ, trao đổi ngay tại Hội nghị này.

 

Thứ nhất, có ý kiến cho rằng Kế hoạch hoạt động của Uỷ ban quốc gia về chuyển đổi số chi tiết quá. Xin báo cáo với Hội nghị đây là nội dung đã được thống nhất trong Phiên họp 2 của Uỷ ban Quốc gia khi cho ý kiến về Kế hoạch hoạt động của Uỷ ban Quốc gia là sẽ giao nhiệm vụ trọng tâm cho từng Uỷ viên Uỷ ban, từng bộ, ngành, địa phương để thống nhất hành động. Năm 2022 Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch Uỷ ban quốc gia đã phê duyệt kế hoạch chi tiết như vậy. Đây là cũng là các nhiệm vụ mà Uỷ ban Quốc gia và các Ban chỉ đạo các cấp đặt trọng tâm theo dõi, là cơ sở để chúng ta tập trung điều phối, đôn đốc trong cả năm.

 

Thứ hai, có ý kiến cho rằng đặt mục tiêu cao quá, trong khi chưa rõ về nhân lực, kinh phí thực hiện. Xin báo cáo với Hội nghị đây là các mục tiêu đã được giao trong Nghị quyết Đảng, Chương trình, Chiến lược quốc gia mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, không phát sinh mục tiêu mới. Nếu không quyết tâm thực thi, thì rất khó khả thi trong việc thay đổi thứ hạng quốc gia, vì chúng ta cố gắng, thì bạn bè quốc tế cũng cố gắng, đặc biệt, chỉ tính trong khu vực Đông Nam Á, thì Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippine đều đặt mục tiêu rất cao, đặc biệt là Indonesia. Song song với đặt mục tiêu cao, Bộ TT&TT luôn tìm tòi giải pháp, cách làm, phát hiện ra giải pháp, cách làm hay của các bộ, ngành, địa phương để từ đó nhân rộng, như đã trình bày tại Hội nghị. Rất mong các bộ, ngành, địa phương sẽ chủ động tìm tòi và chia sẻ giải pháp, cách làm hay của mình.

 

Thứ ba, có ý kiến cho rằng giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương làm nhiều kế hoạch quá. Xin báo cáo với Hội nghị là thực tiễn cho thấy, những việc quan trọng thì trước tiên cần có kế hoạch chi tiết để thực hiện, phân công trách nhiệm, bố trí nguồn lực, lộ trình rõ ràng. Một việc quan trọng, nếu không có một kế hoạch riêng, thì tính khả thi là không cao. Tinh thần là vậy, còn tuỳ tình hình thực tiễn, các bộ, ngành, địa phương có thể ban hành một kế hoạch để thực hiện nhiều nội dung, hay nhiều kế hoạch, mỗi kế hoạch thực hiện một nội dung, miễn sao có đủ nội dung cần có để triển khai.

 

Đến giờ phút này, Bộ TT&TT đã hoàn thành tiếp thu các ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương đối với dự thảo Kế hoạch của Uỷ ban quốc gia về chuyển đổi số năm 2023 và Năm Dữ liệu số quốc gia, trình Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch Uỷ ban xem xét, phê duyệt.

 

Cuối cùng, là một trong những người trực tiếp thực thi, tôi thấy chuyển đổi số là một nhiệm vụ hết sức thách thức, và xin chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương. Thực tiễn triển khai luôn phát sinh rất nhiều vấn đề, mà trong phạm vi Phiên họp toàn thể sẽ không thể nêu chi tiết hết được. Trong năm 2023, Bộ TT&TT – Cơ quan thường trực Uỷ ban Quốc gia xin được làm việc trực tiếp, tiếp nhận, lắng nghe các phản ánh để cùng thảo luận, trao đổi, tháo gỡ, báo cáo Uỷ ban Quốc gia đối với các vấn đề cần Uỷ ban Quốc gia cho ý kiến chỉ đạo. Vấn đề là không bao giờ hết, càng phát triển, càng có nhiều vấn đề, nhưng cũng càng có nhiều công cụ để giải quyết vấn đề.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập

Hôm nay

7,035

Tổng lượt truy cập

1,565,439
Hình 1
App
Chuyển đổi số
Ngày quốc gia
Chủ động
Video sp
Bộ công thương
FTA
mail
đảng bộ
cải cách
Tổng đài
Trung tâm xúc tiến
Công đoàn
Hỏi đáp
Đồng nai
Hiệp định
Fake new
Bộ pháp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây