TÀI LIỆU 6 BÀI HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN
BÀI 1: CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ
NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM
CHO HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG VÀ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm
1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ”
trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Đây là kết luận rút ra từ
kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng và của cách mạng Việt Nam
trong suốt quá trình cách mạng từ khi thành lập Đảng đến nay. Đó là một quyết
định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng
ta.
Hơn 70 năm qua, chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Tổng kết 15 năm đổi mới ở nước ta, Đảng đã rút ra những bài học
kinh nghiệm chủ yếu, trong đó bài học hàng đầu là phải kiên trì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn phong phú và
những thành tựu to lớn đã đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh".
Vì vậy, việc nghiên cứu,
học tập để nắm vững, biết vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ và trách nhiệm hàng đầu của mỗi cán bộ, đoàn
viên và thanh niên Việt Nam.
Câu hỏi 1: Chủ nghĩa Mác-Lênin là gì?
Trả lời:
a. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo.
Trong quá trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người, quần chúng lao động luôn luôn ước mơ, mong muốn
được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no và hạnh
phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để thực hiện ước mơ, khát vọng đó. Nhiều tư
tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành và phát triển để dẫn dắt cuộc đấu tranh
của quần chúng.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự áp bức
bóc lột của giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi có một lý luận khoa học
hướng dẫn. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách đó.
C.Mác (1818-1883) và
Ph.Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa có phê phán những thành tựu khoa học và những
giá trị tư tưởng của nhân loại đạt được trước đó, bằng lao động khoa học và
sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng kết thực tiễn phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. C.Mác và Ăngghen đã xây dựng
nên học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Trong học thuyết của mình, hai ông đã chứng
minh sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới
không còn chế độ người bóc lột người. Đó là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản.
b. Lênin đã bảo vệ, vận
dụng sáng tạo và phát triển toàn diện lý luận của Mác-Ăngghen trong điều kiện
mới.
Đầu thế kỷ XX, tình hình
thế giới đã xuất hiện những đặc điểm mới: Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ
nghĩa đế quốc tạo tiền đề cho cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một
số nước, thậm chí ở một nước.
Trong hoàn cảnh đó, Lênin
(1870–1924) đã vận dụng sáng tạo và phát triển toàn diện học thuyết của
Mác-Ăngghen để giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng vô sản. Lênin đã ra
sức bảo vệ lý luận Mác, phê phán không khoan nhượng với mọi loại kẻ thù tư
tưởng: Xét lại, cơ hội… Đồng thời, ông chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế giới, dựa trên những kết quả mới
của khoa học, bổ sung, phát triển cơ sở lý luận của Mác-Ăngghen với tinh thần
biện chứng duy vật.
Trên cơ sở phân tích sâu
sắc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc và thực tiễn phong trào của giai cấp công
nhân Nga, Lênin đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở ra
thời đại mới: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
Những cống hiến vĩ đại của
Lênin cả về lý luận và thực tiễn đã góp phần làm cho hệ thống lý luận của Mác,
Ăngghen ngày càng hoàn chỉnh. Để ghi nhận công lao và những đóng góp to lớn của
Lênin, những người cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế trân trọng gọi học
thuyết đó là chủ nghĩa Mác-Lênin.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
gì?
Có thể nói một cách ngắn
gọn: Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, nó cung
cấp cho con người một công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới; nó chỉ ra quy
luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học
thuyết về sự giải phóng và phát triển. Nó không những nêu ra mục tiêu, đối tượng,
những quy luật của sự giải phóng và phát triển, mà còn chỉ ra những lực lượng
cách mạng có khả năng thực hiện được sự giải phóng và phát triển. Đó là giai
cấp công nhân.
Câu hỏi 2: Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ
những bộ phận nào? Nội dung cơ bản của những bộ phận đó là gì?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một
học thuyết hoàn chỉnh, một hệ thống lý luận và phương pháp luận chặt chẽ được
cấu thành từ ba bộ phận: Triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và
chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác-Lênin (bao
gồm cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là khoa học
chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó đem lại cho con người thế giới
quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị
Mác-Lênin: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch trần bản chất
bóc lột giá trị thặng dư (m) của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và
người lao động dưới chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản dùng mọi thủ đoạn để áp
bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm giàu cho chúng. Đây
chính là nguồn gốc, nguyên nhân cơ bản dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp nhằm lật
đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Đồng thời, chỉ ra những tiền đề và quy luật kinh tế chủ yếu để đưa tới
chỗ diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
- Chủ nghĩa xã hội khoa
học: Nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội và phương hướng xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Việc xã hội hoá lao
động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp có sứ mệnh lịch sử
thực hiện sự chuyển biến cách mạng đó là giai cấp công nhân, Lênin chỉ rõ:
"Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa". Bởi vì: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp".
Câu hỏi 3: Bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin được thể hiện ở những nội dung nào?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một
hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa học được kết tinh và là đỉnh
cao thành tựu trí tuệ của loài người, của tinh hoa văn hoá mà nhân loại đã sáng
tạo ra.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin
đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa học, những giá trị tư tưởng và văn
hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà nhân loại đã đạt được; bằng
thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên mọi trở ngại,
khó khăn, những cám dỗ của vật chất và vòng cương toả hà khắc của chế độ chính
trị đương thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu, một
cơ sở lý luận khoa học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là
học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải
phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo
và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng
thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
Học thuyết đó cũng đã chỉ
ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó là quy luật về mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự chuyển biến từ hình thái
kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác không phải diễn ra một
cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Từ
đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách
mạng xã hội.
- Bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ: Đó là học thuyết mở, không
cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển
trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin
đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi,
bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn
liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực tiễn vận động của
lịch sử, hay nói cách khác, học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận
cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ
cứng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học
thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển của chính học thuyết đó với
tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề mà các ông chưa có
điều kiện, thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do hạn chế của lịch sử nên
những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Các
ông đòi hỏi những người cách mạng đời sau bổ sung và phát triển làm cho học
thuyết đó hoàn chỉnh.
Toàn bộ học thuyết
Mác-Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng của nó, với bản
chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa Mác-Lênin sống mãi trong sự
nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới và
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt
Nam.
Câu hỏi 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Trả lời:
Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn
và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa
chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp
những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh
là gì? Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX của
Đảng đã nêu rõ:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng
về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm
chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và
văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về
đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Định nghĩa về tư tưởng Hồ
Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu cần nắm vững:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là
sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa
văn hoá nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là
ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, tiếp tục soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.
Câu hỏi 5: Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
1.
Nguồn gốc:
Tư tưởng Hồ Chí Minh được
hình thành từ những nguồn gốc chủ yếu sau:
a. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là cơ sở hình thành thế
giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính
trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những
nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân
loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì
vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có
vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế
thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Trải qua mấy ngàn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo lập cho dân ta một nền văn hoá phong
phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, cao
quý, trong đó chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nấc thang cao nhất của văn hoá
Việt Nam.
Đây là tài sản có giá trị
nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở xuất phát, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là động lực giúp Người
vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan
trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố tích cực của văn hoá phương Đông trong Nho giáo và Phật
giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác ái, tình yêu thương con người; triết
lý hành đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính, truyền thống hiếu học…
Tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái, dân chủ và phong cách dân chủ, nhân quyền của văn hoá phương Tây…
Như vậy, trên con đường
hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời
đại: Đông, Tây, kim, cổ…, vừa thu hái, vừa gạn lọc, suy nghĩ và lựa chọn, kế
thừa, vận dụng, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư tưởng của Người.
d. Những nhân tố chủ quan
thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là tư duy độc
lập tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc
nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng, phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là sự
khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại và kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn qua các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Đó là tâm hồn, ý chí của một nhà yêu
nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành, một trái tim yêu nước thương dân,
thương yêu con người, sẵn sàng chịu đựng những gian khổ hy sinh vì độc lập của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chính những phẩm chất cá
nhân hiếm có đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc chuyển hoá,
phát triển những tinh hoa của dân tộc và của thời đại thành tư tưởng đặc sắc
của Người.
2.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không
phải đã hình thành ngay một lúc mà trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập,
phát triển và hoàn thiện gắn với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của
Người, gồm 5 giai đoạn sau:
- Giai đoạn hình thành tư
tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ năm 1890 - 1911).
- Giai đoạn tìm tòi, khảo
nghiệm (1911 - 1920).
- Giai đoạn hình thành cơ
bản về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930).
- Giai đoạn vượt qua thử
thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930 - 1941).
- Giai đoạn phát triển và
hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 - 1969).
Câu hỏi 6: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
gồm những vấn đề nào?
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Đó là:
1.
Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục tiêu giành độc lập, tự
do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân "ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Để thực hiện mục tiêu đó cần
thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu
nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng:
"Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai
cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những
tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống
chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính
quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản
lý luận Hồ Chí Minh.
3.
Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã
đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ
bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ
trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân
dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng
Việt Nam. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công"..
4.
Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân.
Dân chủ là bản chất của chế
độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ
rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có
tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức,
có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của
nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ "giặc nội
xâm" rất nguy hiểm.
5.
Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực
cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị,
quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh
giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc
chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng
vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực
hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải
phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân,
từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị,
đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
6.
Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn
đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập
mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân".
7.
Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo
giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức
cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách "Người cách mệnh" và bản
thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các
dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập
tự do, vì CNXH.
8.
Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết "Vì lợi
ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người". Người nói: Đảng
cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên".
9.
Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm
cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới thành
công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí
khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu,
lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí;
mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản
của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của
tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới
ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành
những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang
thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh
thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học
tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối,
quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng
cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.